Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” gồm 464 trang, tập hợp 29 bài viết, bài phát biểu tiêu biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, cách diễn đạt dễ hiểu đối với mọi tầng lớp nhân dân, được chắt lọc từ đời sống thực tiễn sinh động của đất nước, cuốn sách đã thể hiện rõ và làm sâu sắc thêm bản chất, giá trị cốt lõi của CNXH, đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về đường lối đổi mới, về phát triển đất nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó, xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ định con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Thứ nhất, khẳng định việc lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là đúng đắn, phù hợp
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH “là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(1), bởi lẽ: Giá trị, bản chất ưu việt của CNXH luôn hướng đến mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện; là một chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội thực sự vì con người. Là một xã hội “... trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội…, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn…, phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai…”(2). Đây là những khát vọng, mong ước tốt đẹp không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của cả nhân loại.
Tổng Bí thư khẳng định đường lối cơ bản, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyện vọng của nhân dân là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Vì rằng, chỉ xã hội XHCN mới “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”(3).
Mặc dù, trong thực tiễn xây dựng CNXH chúng ta vẫn còn những hạn chế, khó khăn trong thực hiện mục tiêu công bằng, bình đẳng xã hội nhưng với những kết quả đạt được trong những năm qua, chúng ta hoàn toàn tin tưởng chế độ xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội hướng tới các giá trị đích thực vì con người, không “vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”, “không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm...”(4). Đấy là mục tiêu và khát vọng của CNXH, của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, khẳng định bản chất tốt đẹp của nền dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(5). Nền dân chủ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng là nền dân chủ của số đông, thực hiện quyền làm chủ cho số đông, tất cả mọi người dân đều thực hiện quyền làm chủ của mình với phương thức: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện thông qua Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước pháp quyền XHCN vừa đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các mặt của đời sống xã hội thông qua hình thức trực tiếp và đại diện. Điều này khẳng định bản chất ưu việt của nền dân chủ nước ta mà các nền dân chủ trước đó không có được.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định bản chất ưu việt của Nhà nước pháp quyền XHCN, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất so với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”(6). Thông qua hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luôn bảo đảm và tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện, phát huy quyền làm chủ mình trên mọi phương diện. Nhà nước bảo đảm lợi ích chính đáng, sự công bằng, bình đẳng giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Nhà nước còn là sợi dây gắn kết giữa các chủ thể, các lực lượng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước.
Như vậy, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, luôn bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Điều này, thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam so với các nhà nước trước đó, kể cả nhà nước tư sản đang tồn tại hiện nay.
Thứ ba, khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
Khi nói về kinh tế thị trường (KTTT), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Đưa ra quan niệm phát triển KTTT định hướng XHCN là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(7).
Theo Tổng Bí thư, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do ĐCSVN lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, đó là kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử quá trình phát triển của KTTT; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH ở ba phương diện: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam còn nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen tồn tại trong một thể thống nhất, cùng hợp tác và phát triển. Các thành phần kinh tế là những bộ phận hữu cơ của nền kinh tế và hoạt động bình đẳng trước pháp luật.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luận giải các đặc trưng cơ bản, thể hiện tính ưu việt của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, đó là gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, “gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(8). Đó là xây dựng một nền kinh tế mà trong chính sách phát triển kinh tế đều hướng tới phát triển các mặt của đời sống xã hội và ngược lại trong chính sách phát triển xã hội đều nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế. Khuyến khích làm giàu chính đáng, hợp pháp gắn với xóa đói, giảm nghèo bền vững, thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm sóc người có công với cách mạng. Điều đó có nghĩa, không chờ đến khi kinh tế phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không phát triển kinh tế bằng mọi giá, không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng XHCN.
Những luận điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam được thể hiện một cách toàn diện và sâu sắc trên các mặt, các khía cạnh, thể hiện bản chất ưu việt của nền KTTT định hướng XHCN. Qua đó, khẳng định một cách thuyết phục Việt Nam lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN là đúng đắn, phù hợp với mục tiêu, con đường phát triển của đất nước, là sự sáng tạo mang tính đột phá về lý luận của Đảng ta.
Thứ tư, khẳng định bản chất bóc lột cố hữu của chủ nghĩa tư bản không thay đổi
Bên cạnh đánh giá những thành tựu to lớn mà CNTB đạt được trên các lĩnh vực về kinh tế, khoa học và công nghệ; sự điều chỉnh nhất định về sở hữu, an sinh xã hội… làm cho diện mạo của CNTB khác nhiều so với trước đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ bản chất bóc lột cố hữu của CNTB không thay đổi: “chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra”(9).
Trên thực tế, theo đuổi lợi nhuận đã, đang và sẽ là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của các nhà tư bản; sự giàu có của các nhà tư bản là từ nguồn lợi nhuận. Nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất. Do vậy, bóc lột vẫn là bản chất của CNTB. Đối với nhà tư bản, để thực hiện mục đích làm giàu, sản xuất hay kinh doanh hàng hóa gì không quan trọng, mà Tiền - một hình thái của giá trị, mới thật sự là tài sản, của cải trong xã hội tư bản. Chính vì vậy, CNTB cũng không xóa bỏ được tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội mà sự phân hóa sẽ tiếp tục gia tăng và do đó vẫn là chế độ bất công. Chênh lệch về thu nhập, mức sống, tài sản giữa người giàu và người nghèo trong thế giới tư bản rất lớn, xu hướng ngày càng gia tăng, như Tổng Bí thư dẫn chứng: “Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”(10).
Chủ nghĩa tư bản không ngăn chặn, không tránh được các cuộc khủng hoảng kinh tế gắn liền với bản chất của CNTB, với mâu thuẫn cơ bản của CNTB là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân TBCN. Các cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra liên tiếp, đẩy nền kinh tế các nước TBCN vào suy thoái, làm tăng nạn thất nghiệp, gia tăng căng thẳng xã hội. Đồng thời, trong khi chạy theo mục tiêu lợi nhuận tối đa, CNTB là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về môi trường sinh thái và biến đổi khí hậu toàn cầu, đe dọa sự sống của con người trên trái đất.
Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa”(11). Do vậy, CNTB chưa phải là chế độ xã hội tạo được sự phát triển ổn định, hài hòa, bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ bản chất thực sự của nền dân chủ tư sản - “dân chủ tự do” mà lâu nay các nước phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới là một nền dân chủ hình thức, giả tạo, một nền dân chủ không bảo đảm và không thực hiện một cách đầy đủ quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà thực chất quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về giai cấp tư sản, những tập đoàn tư bản giàu có: “Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át”(12).
Những điều đó khẳng định bản chất bóc lột cố hữu của CNTB không thay đổi. Chắc chắn đây không phải là chế độ xã hội mà nhân dân Việt Nam mong đợi, càng không phải là tương lai của nhân loại. Nhân dân Việt Nam cần một xã hội “mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người…”.
Thứ năm, khẳng định những thành tựu to lớn trong quá trình đổi mới đất nước
Qua 35 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị ổn định; kinh tế không ngừng tăng trưởng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện; tình trạng nghèo đói giảm nhanh, liên tục, các tệ nạn xã hội từng bước được đẩy lùi; quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; tham nhũng, tiêu cực giảm, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tổng Bí thư khẳng định: “xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây... Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế”(13). Đây là minh chứng để giải thích vì sao công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân đồng tình, ủng hộ, chung sức, đồng lòng cùng thực hiện. Đó là lý do giải thích vì sao khi cả thế giới chìm trong đại dịch Covid-19 thì Việt Nam vẫn cơ bản ổn định và phát triển. Tất cả những điều này “thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”(14).
Trong cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc lại những đánh giá của Đảng ta tại Đại hội XIII khẳng định mạnh mẽ những giá trị của CNXH mang lại: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(15).
Thứ sáu, khẳng định vai trò to lớn của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Bằng nhiều cách diễn đạt khác nhau, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn khẳng định: “sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(16). Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua mọi thử thách của lịch sử, chiến đấu và chiến thắng trước những kẻ thù xâm lược. Trong thời kỳ đổi mới gắn với quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, quá trình CNH, HĐH, hội nhập quốc tế... bên cạnh những thuận lợi, đất nước ta cũng đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, các thế lực thù địch chống phá quyết liệt. Đảng ta vẫn kiên định, vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam tiến lên.
Với sứ mệnh là lực lượng duy nhất lãnh đạo, Đảng ta luôn chăm lo đến đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ rộng rãi, đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân, giữ vững khối đại đoàn kết, thống nhất toàn dân tộc. Tổng Bí thư khẳng định: “Suốt hơn 90 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của Đảng bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ”(17).
Thực tế từ ngày có Đảng, với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt, với những chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược đúng đắn, sát hợp, cách mạng Việt Nam đã giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”(18).
Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã góp phần làm rõ bản chất, mục tiêu, biện pháp xây dựng CNXH ở nước ta, khẳng định đanh thép những giá trị ưu việt của chế độ XHCN mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng. Đồng thời, là cơ sở lý luận giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh, phản bác các quan điểm sai, thù địch hòng phủ định con đường đi lên CNXH ở nước ta, đập tan những luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 541 (tháng 3-2023)
(1) ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17), (18) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21, 21, 21, 28, 29, 25, 27, 19, 21, 19, 21, 33, 33, 34, 368, 371, 371.
TS LÊ VĂN PHỤC
Học viện Chính trị khu vực III