Tự do báo chí là vấn đề phức tạp, vừa trừu tượng, vừa cụ thể và có sự độc lập tương đối với các lĩnh vực khác của đời sống. Hiện nay, các thế lực thù địch đang tìm đủ mọi lý lẽ mơ hồ để cố tấn công, xuyên tạc thực trạng tự do báo chí, hòng áp đặt quan niệm về tự do báo chí của các nước tư bản lên đất nước ta, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với nền báo chí. Song, trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đã khẳng định rõ quyền tự do báo chí được hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam.

Một số quan điểm và cách thức chống phá của các thế lực thù địch

Các thế lực thù địch tìm đủ mọi thủ đoạn để phủ nhận quyền tự do báo chí của Việt Nam

Đảng và Nhà nước ta quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trong đó, mang lại sự an toàn, ổn định để người dân được sống trong yên bình, hạnh phúc, tập trung phát triển kinh tế, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp là điều tất yếu, đáng quý. Tuy nhiên, nhiều thế lực thù địch, cơ hội chính trị, thù hằn với chế độ không chấp nhận điều đó, dù cho đất nước đang ngày càng phát triển, đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội, và đối ngoại. Điều đầu tiên các thế lực thù địch nhắm đến là phủ nhận tôn chỉ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ nền báo chí của đất nước. Họ cho rằng nếu một chế độ chỉ có một Đảng, Đảng này lãnh đạo tuyệt đối hệ thống chính trị thì nguy cơ xuất hiện tình trạng độc quyền, mất tự do, dân chủ là rất cao. Tự do báo chí vì vậy cũng khó tồn tại, khi mà giới cầm quyền có thể “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, không chấp nhận những luồng tư duy, tư tưởng có biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Từ luận điệu mầm mống đó, các thế lực thù địch kêu gọi, thúc dục, cổ súy cho khuynh hướng đa nguyên đa đảng ở nước ta, trước hết bằng việc đòi lại quyền tự do báo chí.

Các thế lực chống đối, phá hoại thường sử dụng chiêu bài “bảo vệ nhà báo” và “đấu tranh đòi lại quyền tự do báo chí” để gây hoang mang dư luận, chia rẽ nội bộ, giảm thiểu uy tín của Đảng và Nhà nước, nhằm đưa nước ta rơi vào tình trạng mất bất ổn về chính trị([1]). Họ triệt để lợi dụng một số yếu kém, sơ hở, sai lầm còn tồn tại trong công tác quản lý báo chí của Đảng ta, thổi phồng những sai sót trong các bài phát biểu, các công trình hoa học, các vấn đề về nhân sự, dự án kinh tế, chính sách công… để kích động, tạo bất mãn trong xã hội, làm giảm uy tín của các cấp lãnh đạo, đi đến khẳng định sai lầm của chế độ([2]). Họ lợi dụng trường hợp những nhà báo, bloggers, những người bất đồng chính kiến bị xử lý do vi phạm pháp luật, đạo đức nghề nghiệp để tuyên truyền rằng tự do báo chí ở nước ta đang bị kìm kẹp. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn khẳng định nước ta không cho phép báo chí tư nhân hoạt động, bóp nghẹt tự do ngôn luận, triệt tiêu quyền tự do báo chí… Các thế lực đen tối, thù hằn với chế độ tìm mọi cách làm quá vấn đề, chèo lái người tiếp nhận thông tin theo hướng ủng hộ và cổ súy cho những người bất đồng chính kiến, có tiếng nói chống đối Đảng và Nhà nước, nhằm đưa đến kết luận Đảng và Nhà nước ta đang tìm cách thủ tiêu tiếng nói tự do của nhân dân.

Các thế lực thù địch yêu cầu nước ta đi theo nền tự do báo chí tư sản, bởi họ cho rằng đó mới là tự do báo chí thực sự

Các thế lực thù địch sửa dụng cơ sở về lý luận của nền báo chí tư sản để tấn công vào nền báo chí nước ta, xem đó là nền tảng tự do chân chính cho báo chí. Họ phê phán, xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận nền tự do báo chí của nước ta, hòng yêu cầu báo chí của ta phải đi theo khuynh hướng tư sản hóa, phá bỏ những cơ sở, nền tảng, định hướng và tinh thần mà Đảng và dân tộc đã và đang hun đúc cho nền báo chí Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua. Họ cho rằng chủ nghĩa tư bản là văn minh, vĩnh hằng, tán dương các chế độ đó có tự do hơn, dân chủ hơn, tốt cho người dân Việt Nam hơn. Họ bỏ qua tất cả những vấn đề tiêu cực, bất cập, man rợ trong xã hội tư bản để tôn thờ nó một cách vô điều kiện.

Cái gọi là tự do báo chí theo khuynh hướng tư sản mà các thế lực chống đối nhắc đến chủ yếu tập trung ở việc báo chí không mang trên mình những sự ràng buộc, kiểm duyệt, cưỡng chế của bất kỳ lực lượng nào cho dù đó có là chính phủ hay xã hội, thậm chí cả sự kiềm chế của Nhà nước, báo chí được trang bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để được truyền đạt mọi ý kiến tới đông đảo quần chúng ([3]). Các thế lực thù địch muốn bẻ lái nền báo chí nước ta theo mô hình dân chủ tư sản, làm cho các kênh thông tin, truyền thông của đất nước không còn chịu những hạn chế, cấm đoán, kiểm duyệt đến từ chính quyền, chế độ. Họ kêu gào về “tự do” theo kiểu “tự do” phải là một điều gì đấy mang tính tuyệt đối hoàn toàn. Đây là “con bài” để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lạm dụng quyền tự do báo chí nhằm kích động chống chính quyền, gây chia rẽ nội bộ, bôi nhọ, xuyên tạc, làm mất đi hình ảnh và uy tín của giới lãnh đạo nước ta, làm mất vai trò của Đảng đối với việc quản lý đất nước, tiếp tới lật đổ chính quyền.

Đồng thời với việc rêu rao sứ mệnh bảo vệ tự do báo chí, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu tạo ra những cuộc tấn công đen tối vào hệ thống chính quyền của đất nước ta. Họ núp dưới bóng “tự do ngôn luận” để tìm cách bóp méo, bịa đặt, vu khống các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, dù là lĩnh vực chúng ta gặt hái được nhiều thành tựu. Chính việc Đảng và Nhà nước ta luôn cố gắng bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí để người dân có thể tự do bày tỏ suy nghĩ, mong muốn, nguyện vọng hợp pháp… lại là cơ sở để các thế lực chống đối lợi dụng.

Sau khi xây dựng cơ sở “tự do ngôn luận” mù mờ, ấu trĩ, họ bắt đầu lợi dụng những vấn đề bức xúc, tồn đọng, bất cập, có ảnh hưởng đến một bộ phận dân chúng để tạo dựng những nội dung sự việc lệch lạc, kịch bản đen tối, vênh với thực tiễn kết hợp với các bài viết, hình ảnh, bài tuyên truyền nhằm gây rối trật tự xã hội, an ninh, chủ quyền đất nước. Họ bịa đặt, thêu dệt những câu chuyện như Đảng ta đàn áp tôn giáo, dựng nhà tù chính trị, kìm kẹp tiếng nói người dân, bóp nghẹt tự do sáng tạo, xuyên tạc các hoạt động của Quốc hội, của Đảng. Họ lợi dụng các nhân vật phản động, cơ hội chính trị, thậm chí một số cựu cán bộ đảng viên viết bài, phát ngôn, tuyên truyền bôi nhọ, phủ nhận những thành tựu cả về đối nội và đối ngoại của đất nước,… Theo cách làm đó, họ rắp tâm từng bước phá hoại những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách phát triển, quản lý xã hội của Nhà nước theo cách “mưa dầm thấm lâu” hay “hiệu ứng cánh bướm”… để dần dà đưa đến một mục đích: Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với báo chí nói riêng và đối với đất nước nói chung. Tất nhiên, những hoạt động đó không thể xem là thứ tự do báo chí chân chính, bởi sự tự do đáng được công nhận, thúc đẩy, bảo vệ không phải là sự tự do vô lối, không vì lợi ích của đất nước, dân tộc, không có tính khoa học, khách quan, chỉ chứa chất sự hằn học, đen tối, bịa đặt bất chấp luật pháp, đạo đức, văn minh.

Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí nói riêng và đối với đất nước ta nói chung

Một câu hỏi đặt ra là: Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là mục tiêu cuối cùng của các thế lực phản động, cơ hội chính trị?

Tất nhiên là không! Nhìn sâu vào các hoạt động của các thế lực thù địch, chúng ta dễ dàng nhận ra điểm đến cuối cùng của các phần tử này là xóa bỏ con đương đi lên xã hội chủ nghĩa của đất nước ta. Và họ cho rằng, muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta, điều tiên quyết là phải thủ tiêu được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước ở từng lĩnh vực. Bên cạnh việc đòi tự do báo chí, họ còn ra sức xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống quân đội; đòi mở rộng dân chủ trong hoạt động bầu cử và hoạt động của Quốc hội; đưa ra những luận điệu, yêu sách kiểu như Đảng lãnh đạo Quốc hội là Đảng đứng trên Hiến pháp và pháp luật; đòi xây dựng nền kinh tế thị trường tuyệt đối, không bị ràng buộc bởi sự kiểm soát của Đảng hay định hướng xã hội chủ nghĩa… Tất nhiên, để có thể mang lại hiệu quả cho âm mưu đấu tranh vì các mục tiêu trên, họ biết đầu tiên cần gỡ bỏ được sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, bởi báo chí mới là nhân tố hàng đầu, là mặt trận cao nhất để rêu rao, tuyên truyền hiện thực hóa những mục tiêu khác.

Phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là bước quan trọng để phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong vai trò lãnh đạo toàn xã hội, tiến tới phá bỏ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị dồn tiềm lực vào việc công kích, phủ nhận, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Nhà nước, chế độ ta, để tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với hệ thống chính trị. Họ đã và đang đang ráo riết tìm cách xây dựng những cơ sở tư tưởng để đòi đa nguyên về chính trị, hướng  đất nước đi theo mô hình tư bản chủ nghĩa, tìm cách trực tiếp hoặc gián tiếp truyền bá lý tưởng, đạo đức, lối sống tư sản, những quan điểm xa lại về “tự do” để gây xáo trộn về mặt tư tưởng trong xã hội, làm tha hóa lối sống, đạo đức, làm cho mọt bộ phận người dân và cán bộ đảng viên rơi vào tình trạng mơ hô, mất phương hướng chính trị. Đây là những âm mưu rất thâm độc, đi ngược lại quyền lợi dân tộc, lịch sử, truyền thống của đất nước, lợi ích chính đáng của nhân dân.

2. Đấu tranh phản bác các quan điểm thù địch, xuyên tạc

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn tôn trọng, đề cao vai trò của báo chí và tự do báo chí; không ngừng đấu tranh đòi quyên tự do báo chí; thống nhất quan điểm và thực hiện nhiều giải pháp để bảo đảm tự do báo chí

Thực tế, các trạng thái tồn tại của cá nhân, tổ chức hay các giai cấp đều gắn liền với tiến trình phát triển chung của dân tộc, của đất nước, điều này dẫn đến một chân lý: Con người không thể có được tự do nếu như môi trường xã hội của họ chưa có độc lập. Nó cũng đưa đến kết luận khác, ở Việt Nam chúng ta, quyền tự do báo chí có được là từ Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (năm 1945) khi dân tộc ta giành lại được độc lập, còn trước đó đất nước ta chưa có tự do và tự do báo chí. Ngược về trước, những ngày đầu hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ mà Người tâm huyết nhất là việc đấu tranh cho quyền tự do báo chí, chống lại sự ràng buộc tư tưởng đến từ chế độ thực dân phong kiến. Năm 1920, tại Đại hội Tua, Bác đã trình bày trước Quốc tế Cộng sản rằng: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có”([4]). Người kiên quyết đấu tranh để quyền tự do báo chí ấy phải được hoàn trả lại cho dân tộc Việt Nam. Đó là minh chứng cho việc Bác Hồ và Đảng ta luôn luôn coi trọng, tôn vinh quyền tự do báo chí.

Từ khi đất nước có độc lập, quyền tự do báo chí luôn được luật hóa trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, thể hiện sự coi trọng, mong muốn bảo đảm quyền tự do báo chí lan rộng và phổ biến trong nhân dân của Đảng và Nhà nước ta. Năm 1946, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Quốc hội thông qua bản Hiếp pháp đầu tiên ngày 9-11-1946, ở Điều thứ 10 nêu rõ: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”([5]). Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản Hiến pháp khác của Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 cũng nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”([6]). Mới nhất, Luật Báo chí năm 2016 đưa ra quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối với quyền tự do báo chí: Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, Nhà nước thực hiện việc bảo hộ đối với hoạt động của nhà báo trong khuôn khổ của pháp luật và báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng([7]). Các thông tư, nghị định và các văn bản dưới luật cũng được ban hành để thực thi quyền lợi tự do báo chí của nhiều đối tượng trong từng hoàn cảnh một cách phù hợp nhất. Xét về khía cạnh luật pháp thì quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin của mọi người ở Việt Nam đã được thể chế hóa một cách toàn diện, đầy đủ, dễ thực hiện, đi vào thực tế cuộc sống.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, báo chí Việt Nam không ngừng lớn mạnh, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng; đã thực hiện tốt, phát huy quyền tự do báo chí của mình.

Đảng ta chính thức lãnh đạo nền báo chí ngay sau khi nước nhà giành lại được độc lập từ tay Pháp - Nhật, nhân dân giành lại được chính quyền. Kể từ năm 1946 cho đến nay, Đảng ta đã nghiên cứu, đề xuất, thực hiện nhiều chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn để phát triển hệ thống báo chí Việt Nam, bên cạnh chú trọng các yếu tố về số lượng, chất lượng, chủng loại, chúng ta cũng tâm huyết đào tạo phẩm chất của đội ngũ nhà báo, cởi mở tiếp thu kỹ thuật và công nghệ tiến tiến, bắt kịp với thời đại… tất cả nhằm giúp cho mọi người có thể tự do tiếp nhận các thông tin dễ dàng, nhà báo có đầy đủ điều kiện để tự do lao động, sáng tạo.

Tính tới đầu năm 2021, cả nước có 142 cơ quan báo (68 cơ quan ở Trung ương và 74 ở địa phương), trong đó số báo có hoạt động điện tử là 112 báo; có 612 Tạp chí  và 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập; có 72 cơ quan có giấy phép hoạt động phát thanh truyền hình bao gồm: 2 đài quốc gia, 1 đài truyền hình kỹ thuật số, 64 đài địa phương và 5 đơn vị hoạt động truyền hình. Nhân sự trong ngành báo chí có khỏang 41.000 người, trong đó 21.132 người đã được cấp thẻ nhà báo và 15.768 người thuộc khối phát thanh truyền hình([8]). Những số lượng trên cho thấy nền báo chí Việt Nam đang rất phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân trong việc tiếp nhận thông tin, tạo ra những diễn đàn bảo đảm quyền tự do ngôn luận của mọi cá nhân trong xã hội. Nếu thực sự Việt Nam không có tự do báo chí, thì không thể có sự phát triển phong phú về mọi mặt của nền báo chí nước nhà hiện nay.

Ngày nay, vai trò của báo chí ngày càng được nâng cao, vừa là công cụ để Đảng và Nhà nước điều hành, quản lý xã hội, vừa là phương tiện để mọi người thỏa mãn những nhu cầu về giải trí, văn hóa, nâng cao tri thức, làm cho con người có đủ thông tin, cơ sở để thấu hiểu lẫn nhau, nhân dân mọi miền xích lại gần nhau hơn. Bên cạnh đó, báo chí cũng trở thành vũ khí lợi hại để Đảng và nhân dân lên án, chống lại, tiêu diệt những tệ nạn, tiêu cực trong xã hội, những hành vi vi phạm pháp luật những cá nhân, tổ chức, cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến chất làm ảnh hưởng đến lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Đánh giá cao vai trò của báo chí, trong buổi lễ Đại hội Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ X (năm 2015), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến dự và có bài phát biểu chỉ đạo Đại hội, trong đó, Tổng Bí thư khẳng định rõ: “Trong thời kỳ đổi mới, gần 30 năm qua, những người làm báo tiếp tục là đội quân chủ lực trong việc định hướng dư luận xã hội, tuyên truyền, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”([9]). Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ tối quan trọng của nền báo chí: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chủ trường của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ động định hướng thông tin tuyên truyền của Đảng và đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”([10]). Tất nhiên, vai trò của nền báo chí Việt Nam sẽ được Đảng và Nhà nước đề cao hơn nữa trong tương lai, khi nhiều nhiệm vụ mới quan trọng của thời đại, của Tổ quốc, của nhân dân đang  đón chờ lực lượng báo chí đảm nhận, gánh vác.

Không hề có cái gọi là tự do báo chí tuyệt đối, kể cả  ở các nước tư bản, nơi tuyên truyền nhiều về sự tự do báo chí

Thứ tự do tuyệt đối mà các thế lực thù địch đang hiện nay cố gắng đòi lại cho báo chí là thứ tự do chỉ tồn tại trong tưởng tượng, thứ tự do được tạo ra sau khi giải phóng khỏi mọi kiểm soát của Nhà nước là thứ tự do ở trạng thái dã man của con người. Nếu nhìn nhận tự do báo chí ở góc độ phát triển đi lên của một xã hội dân chủ, văn minh và quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền với tiêu chí thượng tôn pháp luật thì bất kỳ nguyên tắc hoạt động nào của sự tự do thông tin đại chúng đều cần được điều tiết, kiểm soát. Điều này thường được thực hiện bằng cách ban hành luật pháp, sẵn sàng gắn trách nhiệm sử dụng tự do ngôn luận với các phương tiện truyền thông đại chúng, tránh trường hợp lạm dụng tự do ngôn luận([11]), từ đó mới định hướng cho nền báo chí có thể hoạt động một cách hiệu quả, chân chính, nhân văn.

Quan niệm cho rằng báo chí phương Tây rất tự do, không bị kiểm soát, giới hạn là sai lầm. Thực tế, các nhà nghiên cứu đánh giá thẳng rằng nền báo chí Mỹ bị hạn chế bởi giới quân sự, sự thật là người dân của Mỹ không được tiếp cận cận thông tin về tình trạng người dân vô tội ở các nước Mỹ tấn công quân sự bị tử vong do chính bom đạn của Mỹ([12]). Ở Pháp, ngay trong bản “Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789” cũng xác nhận rằng bất kỳ công nhân nào cũng quyền tự do nói hoặc viết theo ý mình, những họ sẽ phải chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do đó theo quy định của pháp luật([13]). Còn ở Anh, hầu hết các bài phát biểu hay đăng báo có nội dung công kích chủ quyền, chính phủ, Hiến pháp, kích động sự bất bình trong xã hội đều bị coi là vi phạm pháp luật. Thậm chí, quan điểm nền báo chí phương Tây cho phép ai cũng có quyền mở những kênh thông tin của mình là sai trái, thực tế, hầu như chỉ có những người có tiền và có quyền lực thì mới đủ điều kiện thực hiện hoạt động đó. Như vậy, trạng thái thông tin và những định hướng dư luận của báo chí phương Tây luôn bị phụ thuộc vào những tầng lớp người giàu và người có quyền lực, bản thân những người này mở các kênh báo chí chủ yếu vì kiếm tiền, thu lợi nhuận. Rõ ràng báo chí phương Tây không nằm trong tay người dân, không được chia đều cho tất cả cá nhân trong xã hội mà bị kìm kẹp bởi những cá nhân, tổ chức có tiềm lực về tài chính cũng như chính trị([14]).

Những quan niệm về tự do báo chí tư sản cũng không còn phù hợp để sử dụng trong thời đại mà hầu hết tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị xã hội đều có sự thay đổi một phức tạp, nhiều vấn đề, hiện tượng, tình huống trong cuộc sống diễn ra theo nhiều cách không thể kiểm soát, vượt khỏi tầm suy nghĩ, tính toán, ước lượng của bất kỳ chính quyền nào. Vậy đâu là thứ tự do báo chí đúng đắn nhất? Hồ Chủ tịch là một trong những nhà báo có nhận định rõ về sự tự do chân chính của một nền báo chí, trong “Bài nói chuyện với lớp nghiên cứu chính trị khóa I, trường đại học Nhân dân Việt Nam” (năm 1956), Hồ Chủ tịch nói rằng: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do nghĩa là thế nào? Đối với các vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”([15]). Từ đó, Người nhấn mạnh hơn: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”([16]). Tự do mà đi ngược lại với chân lý thì không thể nói đó là tự do được, điều đó chứng tỏ bản thân đã bị cái xấu, các ác, cái phản chân lý lôi kéo, ràng buộc. Chân lý mà báo chí phải hướng đến là mang lại lợi ích cho Tổ quốc, cho Nhân dân, đấu tranh chống lại những điều phản chân lý, đi ngược lại với lợi ích của Nhà nước, của dân tộc.

Bối cảnh hiện nay, cần phải đề cao tự do báo chí, đồng thời phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ta, sự quản lý của Nhà nước

Hiện nay, đất nước đang trên đà phát triển thần tốc về mọi mặt, vai trò của tự do báo chí càng cần phải được đề cao, bước vào thời kỳ bùng nổ thông tin, những ai chậm chạp, bảo thủ hoặc không đủ điều kiện để tích lũy thông tin hằng ngày sớm muộn cũng sẽ rơi vài trạng thái lạc hậu so với xã hội. Tự do báo chí là một cơ sở quan trọng để mọi người có thể chủ động tiếp cận và tích lũy thông tin, phát huy ý chí, nguyện vọng, khơi dậy tinh thần, trí tuệ của bản thân và cộng đồng nhằm phát triển cá nhân, đất nước. Tự do báo chí cũng là biện pháp chủ yếu để người dân sửa dụng quyền lực của Nhà nước, thông qua việc phản ánh, giám sát, có tiếng nói đối với những vấn đề liên quan đến lợi ích của bản thân hoặc những vấn đề về an ninh, an toàn xã hội, thậm chí những vấn đề to lớn, trọng đại của tổ quốc.

Tuy nhiên, song song với việc đề cao tự do báo chí, Đảng và Nhà nước ta cũng cần có sự quản lý, giám sát sâu sát đối với các cơ quan báo chí, chèo lái nền báo chí Việt Nam đi đúng hướng, phục vụ chân lý, lợi ích của nhân dân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phát huy tâm huyết của những thế hệ trước để lại. Mặt khác, chỉ khi báo chí được dẫn dắt dưới sự lãnh đạo của Đảng ta - một đảng được trang bị bằng hệ thống lý luận cách mạng và khoa học thì hoạt động báo chí mới có thể bảo đảm được tính cách mạng, dân chủ, khoa học, nhân văn, phục vụ đại đa số nhân dân, đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng dựa trên cơ sở của những thông tin chính xác, trung thực; phù hợp với mục tiêu phát triển chung của đất nước, cộng đồng, dân tộc, đồng thời phù hợp với văn hóa, truyền thống, lịch sử của nước nhà… tất cả nhằm giúp nền báo chí nước ta xứng đáng với hai từ “chân chính”.

3. Một số biện pháp đấu tranh chống lại âm mưu phủ nhận tự do báo chí ở Việt Nam

Thứ nhất, cần có sự hoàn thiện, đồng bộ về chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và hệ thống quy định pháp luật trong lĩnh vực báo chí, từ Hiến pháp, Luật Báo chí cho đến các thông tư, nghị định và các văn bản dưới luật. Hệ thống pháp luật phải chặt chẽ, tiến bộ, phù hợp với hoàn cảnh đất nước và xu thế phát triển của thời đại, tạo gốc rễ, nền tảng, chỗ dựa vững chắc cho sự hoạt động và phát triển của nền báo chí nước nhà. Đồng thời, không để lọt những “khoảng trống” trong hệ thống pháp luật, nơi mà các thế lực thù địch có thể sinh tồn, tạo mầm mống cho mưu đồ đen tối, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc. Bên cạnh đó, phát huy đầy đủ trách nhiệm của những cá nhân, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý và định hướng trong các cơ quan báo chí của Đảng và Nhà nước, nâng cao vai trò của các cơ quan báo chí của Đảng và Nhà nước trong công tác định hướng dư luận, dẹp bỏ những thông tin  sai trái, đi ngược lại với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…

Thứ hai, cần xây dựng những chuẩn mực chung cho đội ngũ nhà báo của nước ta. Họ phải được tôi luyện để trở thành người có tâm, có tầm, có trí, có đủ năng lực để bảo vệ lý luận khoa học chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tiếp thu thành tựu mới mà khoa học đạt được, sẵn sàng đương đầu với những khó khăn, thách thức, cám dỗ để có thể gây dựng sự nghiệp phục vụ chân lý, phục vụ nhân dân. Phẩm chất của đội ngũ nhà báo thể hiện ở chỗ luôn ý thức được mục tiêu cuối cùng của nghề báo là “làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, xã hội trong lành hơn” và tuyệt đối không được sử dụng lợi thế nghề nghiệp để “phục vụ lợi ích cá nhân, bôi nhọ người khác, hạ thấp uy tín, xúc phạm danh dự, gây bất lợi cho các cơ quan, đoàn thể, tổ chức…”([17]). Đội ngũ nhà báo còn phải được chú trọng bồi dưỡng nhiều hơn về trình độ chuyên môn khoa học, trình độ ngoại ngữ, công nghệ thông tin để nắm bắt xu hướng thay đổi của thời đại, của nhân loại.

Thứ ba, trong công tác quản lý hoạt động của báo chí, phải kiên quyết loại bỏ, xử lý hình sự những trường hợp vi phạm pháp luật. Trước đó, cần đánh giá đúng vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực báo chí, phải xem đó như công cụ quản lý tối thượng của Nhà nước, nhân dân giành cho nền báo chí, hạn chế đến mức tối đa tình trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan báo chí không có thực chất, chỉ mang tính hình thức. Ngoài ra, cần nhanh chóng phát hiện những phần tử hoạt động trong nền báo chí có tư tưởng sai lệnh, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, không có đạo đức nghề nghiệp, không nhiệt tình, tâm huyết trong công việc… để xử lý, kỷ luật nghiêm minh.

Thứ tư, báo chí phải phản ánh đúng sự thật khách quan, bởi suy cho cùng chỉ có sự thật mới có sức lan tỏa, tạo niềm tin trong quần chúng. Báo chí thực sự phải trở thành công cụ góp sức đưa đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, tìm cách định hướng dư luận, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Báo chí phải nỗ lực tạo ra diễn đàn cho nhân dân, hình thành dự luận khách quan, chuẩn mực, giúp công chúng tiếp thu đúng đắn nguồn tin ngày càng khổng lồ khắp mọi nơi, giúp nhân dân giữ vững được lập trường, tư tưởng, tự tránh được “bẫy” tự do báo chí của các thế lực thù địch.

 

([2]) Vũ Hiền và Trần Quang Nhiếp: Báo chí trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr. 155

([3]) Nguyễn Văn Dũng: Cơ sở lý luận của báo chí. Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2018, tr. 350-351

([4]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. I, tr. 34, 35

([10]) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 216

([11]) E.P. Prokhorop: Cơ sở lý luận của báo chí. Nxb. Thông Tấn, Hà Nội, 2004, tr. 266-267

([12]) Đinh Thị Thúy Hằng: Báo chí thế giới – Xu hướng phát triển. Nxb. Thông Tấn, Hà Nội, 2008, tr. 77

([15]) Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1956, t. III, tr. 301-305

([16]) Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh về báo chí, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004, tr. 214

([17]) Hà Đăng: Nâng cao năng lực và phẩm chất của phóng viên báo chí trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr. 101

Ngô Thị Hạnh