Sau hơn 35 thực hiện công cuộc đổi mới, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước vẫn không ngừng chống phá, xuyên tạc, bóp méo nhiều sự thật về cách mạng nước ta với những quan điểm, luận điệu, chiêu thức ngày càng tinh vi, xảo huyệt. Trong bối cảnh cả hệ thống chính trị đang tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, phòng chống tác động nặng nề từ làn sóng thứ tư của đại dịch COVID-19, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Bài viết tập cung cấp luận cứ để phản bác lại một số lập luận sai trái, chống phá trên 02 nhóm vấn đề chính: (1). Nền tảng tư tưởng của Đảng và (2). Thành tựu to của công cuộc Đổi mới ở nước ta.

1. Đặt vấn đề

Hơn 90 năm kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, cùng với việc tập trung xây dựng, thực hiện đường lối và quyết sách chính trị, Đảng luôn kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình, xem đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cách mạng nước ta, là vấn đề có tính nguyên tắc. Thực tế chứng minh, thành tựu phát triển đất nước có sự đóng góp to lớn của hoạt động đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch; từ đó, nâng cao cảnh giác cách mạng, bồi dưỡng nhận thức đúng đắn cho cán bộ, đảng viên, quân và nhân dân, giữ vững chế độ chính trị đất nước, củng cố và tăng cường niềm tin, lý tưởng vào con đường, sự nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Tuy vậy, công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sái trái, thù địch của cả hệ thống chính trị bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đáng chú ý, những biểu hiện nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc về vị trí, vai trò của cuộc đấu tranh; xác định đối tượng đấu tranh; nội dung, phương thức đấu tranh, tính kịp thời, tính thuyết phục còn hạn chế; chưa gắn đấu tranh phê phán với bảo vệ, phát triển lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là thiếu luận cứ thuyết phục, có tính chuyên sâu ở tầm quan điểm, lý luận (Vũ Văn Hiền, 2020:6).

Thời gian gần đây, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, nhất là sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp,… các thế lực thù địch, phản động ở các nước phương Tây trước đây, lực lượng “diều hâu” cực đoan, cùng những phần tử về cơ hội chính trị, bất mãn lợi dụng mạng xã hội gia tăng các hoạt động tuyên truyền, chống phá Đảng và Nhà nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách toàn diện, trên nhiều lĩnh vực; trong đó tập trung công kích, tuyên truyền chống phá vào nền tảng tư tưởng của Đảng; phủ nhận vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam; tuyên truyền chống phá cương lĩnh của Đảng, nội dung các Văn kiện Đại hội XIII; xuyên tạc công tác nhân sự, cán bộ của Đảng ta; nói xấu, bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước ta; gieo rắc tâm lý hoài nghi, chia rẽ nội bộ Đảng; kích động thù hằn dân tộc nhằm xóa bỏ khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên tạc sự thật về cách mạng Việt Nam và thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đất nước ta (Vũ Văn Hiền, 2020:96),…

Từ đó, việc nghiên cứu, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng và sự nghiệp cách mạng càng cần được chú trọng. Trong bài viết này, chỉ tập trung phân tích, đưa ra các cứ liệu để phản bác các luận điện sai trái, xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch ở 2 nhóm vấn đề lớn: (1). Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nền tảng tư tưởng của Đảng, (2). Thành tựu to lớn của sự nghiệp cách mạng, đặc biệt sau 35 năm đổi mới.

2. Luận cứ phê phán quan điểm sai trái, xuyên tạc và phản động của các thế lực thù địch

2.1. Luận cứ phê phán, phản bác quan điểm cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời và Đại hội XIII cần bỏ cụm từ “nền tảng tư tưởng”, cứ lý thuyết nào đúng thì theo

Thứ nhất, phải khẳng định một cách khái quát nhất rằng, Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học; vừa có tính nhân văn nhân đạo sâu sắc nhưng cũng là học thuyết phát triển, “mở” được phát triển không ngừng; do đó, nó không bị hạn định bởi biên giới quốc gia, dân tộc và không thể bị lỗi thời.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học thuyết đầy tính cách mạng và nhân văn sâu sắc.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra đời từ giữa thế kỷ XIX, gắn liền với tên tuổi lãnh tụ C. Mác, Ph. Ăngghen (sau này lãnh tụ V.I. Lê-nin kế tục, bảo vệ và phát triển) ở châu Âu, nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh nhất và bộc lộ rõ bản chất giai cấp, tính mâu thuẫn gay gắt của nó, kéo theo tình trạng bóc lột người lao động làm thuê đến cảnh khốn cùng. Trước yêu cầu có tính lịch sử ấy, Chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra đời đã thổi luồng nhận thức, tư tưởng mới mẻ, sáng tỏ hơn bao giờ hết trong giai cấp công nhân, trong người lao động và xã hội đương thời. Ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin với các hợp phần của nó là Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học đã giúp nó đảm nhận sứ mệnh cao cả, thiêng liêng và nhân văn sâu sắc đó là lý giải tận cùng sự thống khổ của người lao động, tình trạng người bóc lột người (đó không phải là máy móc, nhà xưởng,… như họ từng nhận thức và đập phá mà chính là chủ nghĩa tư bản); chỉ ra con đường, cách thức để giải quyết tận cùng nỗi thống khổ ấy cho con người mà trước hết là những người vô sản làm thuê (liên minh và thực hiện cách mạng vô sản toàn thể giới, có đảng cộng sản lãnh đạo); làm thay đổi về chất phong trào cộng sản và công nhân toàn thể giới từ tự phát sang tự giác. Mục tiêu và sứ mệnh ấy của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ước mơ ngàn đời nay của nhân loại, không chỉ trong xã hội đương đại mà còn cho đến tận ngày nay về cuộc sống mà ở đó con người được giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công, có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học thuyết lý luận khoa học.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học thuyết khoa học bởi nó được xây dựng dựa trên cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, sự phát triển khoa học đương thời, tiếp thu có phê phán toàn bộ giá trị tinh hoa của quá trình phát triển nhân loại như triết học cổ điển Đức (phương pháp biện chứng của G. Ph. Hêghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của L. Phoi ơ bách,…), kinh tế chính trị cổ điển Anh (như học thuyết về giá trị lao động của A đam Xmit, Đa vít Ri các đô,…) và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (như Xanh Ximông, Rôben Ôoen, Etienne Cabet, Sác lơ Phuriê,…). Như vậy, Chủ nghĩa Mác từ khi ra đời đã thực hiện sứ mệnh là khái quát hoá cao nhất quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội, tư duy; tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người và sự thay thế nhau bởi các hình thái kinh tế - xã hội, trong đó nhân tố quyết định là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2019:53) và là cơ sở để C. Mác và Ph. Ăngghen dự báo loài người tất yếu sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản qua một giai đoạn quá độ là chủ nghĩa xã hội; trang bị lý luận cho giai cấp vô sản toàn thế giới về vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình và cách thức thực hiện sứ mệnh của mình; trang bị cho giai cấp vô sản cương lĩnh chỉ đường nhằm lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực, nhân văn và bình đẳng.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học thuyết mở và phát triển không ngừng.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học thuyết có tính mở và phát triển và vì vậy không thể lỗi thời và lạc hậu. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và khi 2 lãnh tụ của phong trào công nhân là C. Mác và Ph. Ăngghen lần lượt qua đời, V. I. Lê-nin là người có công lớn khi tiếp tục phát triển tư tưởng của Chủ nghĩa Mác như về tư tưởng triết học, kinh tế chính trị, về khả năng cách mạng vô sản thắng lợi ở một nước tư bản có trình độ phát triển chưa cao, bổ sung và phát triển tư tưởng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực từ thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, phát triển tư tưởng và trực tiếp xây dựng chính đảng mác-xít kiểu mới,… Sau V.I. Lê-nin còn có nhiều nhà cách mạng, học giả tiếp tục phát triển học thuyết Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển lý luận ấy vào điều kiện cụ thể để lãnh đạo cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu trong số đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Lúc sinh thời, những người khai sinh ra Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chưa bao giờ muốn và chưa có bất cứ mệnh đề phán đoán nào trong học thuyết của mình về cách mạng xã hội hay xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai thành những tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Những nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản, Ph. Ăngghen đã trả lời hàng loạt các vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa xã hội khoa học như thế nào là giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản; quan hệ giữa giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản, hay hiểu thế nào là xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xác lập chế độ công hữu; các giải pháp cần thiết để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,… Đặc biệt, trong tác phẩm này và nhiều tác phẩm khác, Ph. Ăngghen là người rất khách quan, khoa học khi luận giải rất tường minh về chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học và đồng thời yêu cầu những người cộng sản rằng: “… chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó” (C. Mác & Ph. Ăngghen, 1995: 305).

Ngoài ra, trong rất nhiều tác phẩm, C. Mác và Ph. Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh giá và tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, nhất là về hiện thực hoá con đường xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản. Trong Lời đề tựa cho lần xuất bản của tác phẩm có tính cương lĩnh và rất nổi tiếng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1872, chính C. Mác và Ph. Ăngghen  rất lưu ý rằng: “Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do dấy không nên quá câ nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II” (C. Mác & Ph. Ăngghen, 1995:128).

Chúng ta nhớ rằng, quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển là một trong những đóng góp xuất sắc của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và không có cớ gì trong tư duy lý luận và thực tiễn những lãnh tụ của các lý thuyết ấy lại không tuân thủ nó một cách thuần thục và nghiêm cẩn. Tất cả đều được C. Mác, Ph. Ăngghen hay V.I. Lê-nin nhận thức và quán triệt sâu sắc trong thực tiễn cách mạng đương thời. Chẳng hạn, trong tác phẩm Chính sách kinh tế mới, Lê-nin đã đưa ra định nghĩa kinh điển bởi sự đầy đủ tính hiện thực của nó về chủ nghĩa xã hội mà lâu nay chúng ta lãng quên, không biết hoặc cố tình chối bỏ, phủ nhận trong chỉ đạo thực tiễn. Người nói: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài: Chính quyền xô-viết + trật tự đường sắt Phổ + kỹ thuật và tổ chức các tơ - rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ ect. ect + + = ∑ chủ nghĩa xã hội” (V.I. Lênin, 1977:684). Cách viết “ect. ect” (nghĩa là “vân vân”, “còn nhiều thứ khác nữa”) của V. I. Lênin trong công thức này thể hiện tư duy phát triển, “mở” trong chỉ đạo thực tiễn về xây dựng chủ nghĩa xã hội đến nay vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá và thế giới phẳng, phát triển khoa học, công nghệ như hiện nay.

Từ những luận cứ như trên, tại sao lại khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là lỗi thời. Phải chăng, chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin mới là những người nhầm lẫn, cố tình nhầm lẫn, hoặc cố gắng không nhìn thấy bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của nó. Phải chăng họ đã tỉnh táo, đủ sâu sắc, đủ khách quan, đủ “biện chứng” trong xem xét, đánh giá về thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước của Việt Nam? Hay, nếu có phải chăng chính là sự lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc, tường tận và bằng tinh thần cầu thị của những bậc “quân tử”, hay phải chăng chúng ta chưa vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn và sáng tạo vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và của Việt Nam? Đó cũng là sự cảnh tỉnh đối với chúng ta, những người cộng sản đã và đang thừa hưởng di sản tư tưởng vĩ đại của C. Mác, Ăngghen và V.I. Lênin.

Thứ hai, phải khẳng định, quan điểm “Đại hội XIII cần bỏ cụm từ “nền tảng tư tưởng”, cứ lý thuyết nào đúng thì theo” của các thế lực thù địch, cơ hội là âm mưu thâm độc, bởi nếu chúng ta không nắm rõ bản chất chế độ chính trị Việt Nam và lịch sử dân tộc, rất dễ bị đánh lừa.

Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động. Điều này được ghi trong văn kiện quan trọng của Đảng và Hiến pháp nước ta.

Vậy nếu bỏ cụm từ “nền tảng tư tưởng” nghĩa là thế nào và hậu quả ra sao? Từ bỏ “nền tảng tư tưởng” của Đảng có nghĩa là từ bỏ Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ nhận toàn bộ những gì của học thuyết và tư tưởng này. Điều này cũng không khác với việc chúng yêu cầu chúng ta từ bỏ mục tiêu và định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, xoá bỏ vai trò cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng ta, từ đó, làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị Việt Nam. Từ bỏ “nền tảng tư tưởng” cũng có nghĩa là chối bỏ thành tựu, công lao, và cả sự hi sinh của biết bao thế hệ xây đắp nên đất nước và chế độ của chúng ta, là đi ngược lịch sử và khát vọng của dân tộc. Đó là điều không thể chấp nhận.

Vậy còn quan điểm “cứ lý thuyết nào đúng thì theo” là thế nào? Bản thân quan điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch cũng đang cho thấy sự tự mâu thuẫn, phiến diện. “Lý thuyết nào đúng?”, thường được các thế lực thù địch viện dẫn và cho rằng, đó không gì khác ngoài mô hình, lý thuyết của chủ nghĩa tư bản như phải tam quyền phân lập trong tổ chức quyền lực nhà nước, phải đa nguyên đa đảng tham gia chính trường, phải giương cao ngọn cờ tự do, dân chủ, nhân quyền; phải thực hiện quyền biểu tình, lập hội và tổ chức dân sự,… Và họ cho rằng đó là chân lý, luôn đúng, nếu khác với lý thuyết và mô hình này thì hoàn toàn sai. Không hiếm những người vì thù hằn dân tộc trong lịch sử, thái độ thù địch,… nên họ phê phán, phỉ báng tất cả những gì những người cộng sản làm dù nó có lợi cho dân, cho nước.

Trong hành trình 30 năm tìm chân lý cứu nước, cứu dân, vào năm 1919, Nguyễn Ái Quốc khi đọc được Bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do V. I. Lênin viết, Người đã khẳng định “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phòng chúng ta”(Hồ Chí Minh, 2011b:562). Đấy chính là Chủ nghĩa Lê-nin. Trong cuốn sách Đường Kách mệnh, xuất bản năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định dứt khoát: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(Hồ Chí Minh, 2011a:289). Kỳ thực, thứ gọi là học thuyết hay chủ nghĩa tư bản, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ nằm trong số “nhiều học thuyết và nhiều chủ nghĩa” ấy mà thôi, nhưng ngay từ những năm đầu bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, Người đã trước sau như một kiên định đi theo chủ nghĩa Lênin (Chủ nghĩa Mác - Lênin). Thực tiễn hơn 90 năm Đảng lãnh đạo và hơn 75 năm lập quốc, Đảng ta vẫn kiên định lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và không ngừng bổ sung, phát triển nó. Tổng kết 30 năm đổi mới (1986 - 2016), trong 5 bài học kinh nghiệm được rút ra, bài học quan trọng đầu tiên được Đảng khẳng định: “Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh….” (Đinh Thế Huynh et al., 2015:344), và sau hơn 35 năm đổi mới (1986 - 2021), Đảng ta vẫn xem đây là bài học kinh nghiệm hàng đầu khi nhấn mạnh: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021:95).

Như vậy, sự thật, đằng sau câu nói “cứ lý thuyết nào đúng thì theo” bản chất các thế lực phản động vẫn kỳ vọng chúng ta trở về với con đường tư bản chủ nghĩa, với cái gọi là tự do phương Tây và những mô hình mà chúng dựng và tô vẽ nên. Chúng ngây thơ khi kêu gọi chúng ta từ bỏ cái chúng ta ước mơ và đang xây dựng để trở về với cái mà chính dân tộc ta đã kiên quyết xoá bỏ ngay từ năm tháng trường kỳ kháng chiến, kiến quốc (từ năm 1945). Từ đây để thấy âm mưu thâm độc và trắng trợn của chúng. Với tất cả tính khoa học, nhân văn, nhân bản và là học thuyết mở, phát triển như thế, không có lí do gì chúng ta không kiên định và tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam, hướng đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021:27). Đó vẫn là lý thuyết chân chính nhất, cách mạng nhất và đúng đắn nhất.

2.2. Luận cứ phê phán, phản bác quan điểm phủ nhận thành tựu cách sự nghiệp cách mạng sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc Đổi mới

Đổi trắng thay đen, hạ thấp hay phủ nhận thành tựu cách mạng Việt Nam là một trong thủ đoạn và luận điệu thường thấy của các thế lực thù địch, phản động. Luận điệu của chúng chủ yếu tập trung phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xuyên tạc bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của Nhân dân ta, phủ nhận thành tựu trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc hay thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Phần này, tập trung phân tích, đưa ra lí lẽ và luận cứ bác bỏ quan điểm xuyên tạc về thành tựu đất nước sau hơn 35 năm đổi mới toàn diện.

Về vấn đề này, các thế lực phản động, thù địch thời gian gần đây thường đưa ra quan điểm rằng “thành tựu của đổi mới là do Đảng, Nhà nước Việt Nam “tự vẽ lên”, “tự mình khen mình”, chứ thực chất theo chúng là “không có thật”, “thành tựu đổi mới nếu có chỉ là “chui vào túi của bọn độc tài”, bọn tham nhũng, tham quan, còn đất nước vẫn trong cảnh nghèo nàn, tụt hậu, nhân dân đói nghèo, đạo đức suy đồi, xã hội vô kỷ cương; hay Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền; hoặc chúng cho rằng, Việt Nam thiếu dân chủ, nhân quyền...

Đối với các luận điểm trên, có thể đưa ra các luận cứ sau để phản biện:

Một là, khẳng định tính tất yếu của quá trình Đổi mới và không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuôc đổi mới và thành tựu to lớn mà công cuộc này đẽ đem lại cho cơ đồ đất nước như hôm nay.

Sự nghiệp đổi mới đất nước được Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986). Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng sự thật, chỉ rõ sự thật, mục tiêu lớn lao nhất của công cuộc đổi mới là đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đây được xem là bước ngoặt trong đại trong tiến trình lịch sử phát triển của cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đất nước ta chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021:103-104). Điều này được minh chứng thông qua các chỉ số, số liệu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của Việt Nam và các tổ chức quốc tế công bố, nhất là giai đoạn 2016 - 2020:

(1). Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân đạt 6% giai đoạn 2016 - 2020, giai đoạn 2011 - 2020 là 5,95% (riêng năm 2020 tăng GDP là 2,91% dù thấp nhất trong giai đoạn 2011 - 2020 nhưng là quốc gia có mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và được thế giới đánh giá là 1 trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế năm 2020 đạt 271,2 tỉ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD/người/ năm (tăng 3,1 lần so với năm 2010) (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021:61). Kết quả này giúp Việt Nam được xếp vào nền kinh tế top thứ 40 thế giới, đứng thứ 4 khu vực ASEAN.

(2). Dự trữ ngoại hối quốc gia tăng kỷ lục: 100 tỉ USD vào năm 2020. Bội chi ngân sách giảm từ 5,4% giai đoạn 2011 - 2015 còn 3,5% giai đoạn 2016 - 2020; nợ công so với GDP giảm mạnh còn 55,3% (trần nợ công của Quốc hội đặt ra là 65% GDP).

(3). Năng lực cạnh tranh quốc gia do Diễn đàn kinh tế thế giới công bố năm 2019, Việt Nam xếp 67/141 quốc gia, năng suất lao động tăng từ 4,3%/ năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 6,0%/ năm giai đoạn 2016 - 2020; Chỉ số đổi mới sáng tạo Việt Nam tăng vượt bậc, xếp 41/131 quốc gia, vùng lãnh thổ (dẫn đầu các nước có nền kinh tế cùng mức thu nhập). Theo Brand Finance (Anh), hãng chuyên định giá thương hiệu quốc tế, năm 2020, giá trị thương hiệu Việt Nam đạt 319 tỉ USD, tăng 29% so với 2019 - mức tăng nhanh nhất thế giới.

(4). Các chỉ số xã hội, an sinh, Việt Nam đang cho thấy là hình mẫu của sự phát triển toàn diện, bền vững, như: Tỉ lệ lao đạo qua đào tạo tăng từ 40% lên 64,5%, lao động đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 14,6% lên 24,4%; Tỉ lệ hộ nghèo còn khoảng 2,7% theo cách tiếp cận nghèo đa chiều, đến nay có 62% xã và 173 huyện đạt chuẩn tiêu chí nông thôn mới; giải quyết cho hơn 9,2 triệu người có công các chế độ chính sách; Mức độ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 60,9% lên đến 90,7%; Chỉ số phát triển tổng hợp con người HDI mới nhất năm 2019 do Liên hợp quốc công bố, lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm cao của thế giới với 0,704 điểm, hạng 117/189 quốc gia, vùng lãnh thổ; là điểm sáng của thế giới về thực hiện Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc; chỉ số hạnh phúc quốc gia do Liên hợp quốc và các tổ chức nghiên cứu quốc tế công bố liên tục cải thiện tích cực (theo World Happiness Report, Liên hợp quốc: lấy mốc từ năm 2018 xếp: 95/156 quốc gia, năm 2019: 94/156 quốc gia, năm 2020: 83/156 quốc gia; theo đánh giá của Quỹ Kinh tế mới, năm 2012, chỉ số HPI -happy Planet Index, Việt Nam xếp thứ 2 thế giới; năm 2018 theo đánh giá của NEF - New Economics Foundation tại Anh, Việt Nam xếp thứ 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, năm 2019, Việt Nam xếp thứ 10 quốc gia tốt nhất cho người nước ngoài sống và làm việc theo báo cáo HSBC Expat công bố (Hà Anh, 2020),…

(5). Các chỉ số và thành tựu khác như: Chỉ số chính phủ điện tử năm 2020 do Liên hợp quốc công bố, Việt Nam xếp thứ 86/193 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 2 bậc so với năm 2018, trong đó, chỉ số hạ tầng viễn thông tăng mạnh đến 31 bậc, chiến lược chuyển đổi số quốc gia với xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, tầm nhìn 2030 đã được Chính phủ ban hành, triển khai thực hiện; đặc biệt, chỉ số quyền lực châu Á (Asian Power Index) năm 2020 do Viện Lowy công bố, nước ta xếp 12/26 quốc gia, vùng lãnh thổ, thậm chí vượt cả NewZeland,... Việt Nam đảm bảo tốt ổn định chính trị - xã hội; quốc phòng - an ninh được giữ vững, củng cố, kiên quyết, kiên trì giữa vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả; thế và lực đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín đất nước được nâng cao (Vũ Văn Hiền, 2020:36-37).

Đặc biệt, gần đây, trong khi thế giới và nhiều quốc gia ở các thể chế chính trị khác nhau đang vật lộn chống lại đại dịch COVID-19, Việt Nam được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế ca ngợi[1] như điểm sáng và hình mẫu về đất nước Việt Nam nhân văn, bản lĩnh, trách nhiệm (Vũ Văn Hiền, 2020:37) với nhân dân và cộng đồng quốc tế[2]; có nhiều kinh nghiệm quý giá trong phòng, chống và kiểm soát đại dịch và thực hiện tốt các mục tiêu kép. Việt Nam lần đầu tiên đã chủ trì đề xuất, thương lượng và thúc đẩy để Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 75 thông qua Nghị quyết lấy ngày 27/12 hàng năm là “Ngày Quốc tế sẵn sàng chống dịch bệnh” nhờ chính những thành tựu của Việt Nam trong kiểm soát dịch COVID-19 đã khiến cộng đồng quốc tế ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong đàm phán và thông qua văn kiện này.

Đặc biệt, để tăng sức thuyết phục cho kết luận này, chúng tôi đã cùng nhóm nghiên cứu tham gia tiến hành 1 cuộc khảo sát xã hội học trực tuyến bằng ứng dụng Google Form trên mạng xã hội (Facebook  và Zalo) phạm vi toàn quốc ngay trong thời điểm đất nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của làn sóng thứ 4 đại dịch COVID-19 từ ngày 15/6 đến 25/6/2021. Kết quả có 590 người dân từ 15 đến 76 tuổi, ở 3 miền Bắc, Trung, Nam tình nguyện trả lời, được phân tích, xử lí trên phần mềm SPSS, phiên bản 25.0 với nhiều kết quả đáng chú ý. Với câu hỏi: “Liệu Việt Nam có thể vượt qua đại dịch COVID-19 hay không” có đến 90.2% trả lời “Chắc chắn sẽ vượt qua”, 5.1% “phân vân” và 4.7% “không rõ”. Ngoài ra, với câu hỏi, “Cơ sở nào để khẳng định “Việt Nam chắc chắn sẽ vượt qua đại dịch” thì kết quả thống kê như sau:

Cơ sở khẳng định Việt Nam vượt qua đại dịch (N=590)

n

%

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng*

478

81.0

Sự quản lý, điều hành tốt, quyết liệt của Chính phủ, bộ, ngành và chính quyền các cấp*

516

87.5

Truyền thống, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam

422

71.5

Sự nỗ lực vươn lên của cá nhân, cộng đồng

444

75.3

Sự lạc quan của cá nhân, cộng đồng

380

64.4

Năng lực của Ngành Y tế*

480

81.4

Sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế

418

70.8

Sự chia sẻ, đoàn kết và hỗ trợ nhau của cộng đồng, xã hội

490

83.1

Niềm tin về sự che chở, trợ giúp của lực lượng siêu nhiên, tôn giáo

142

24.1

Sự phù hộ, che chở của tổ tiên, các bậc tiền nhân của dân tộc

122

20.7

Sự linh cảm, mách bảo của nhận thức nhưng chưa thể diễn tả rõ ràng thành lời

100

16.9

Đương nhiên đại dịch sẽ được đẩy lùi vì là quy luật

228

38.6

Những thành tựu trên là hiện thực, được thế giới thừa nhận, đánh giá cao; và cũng không phải là câu chuyện Việt Nam tự vẽ lên, tự khen mình, tự “tô hồng” như các thế lực phản động đã nói. Đây là những thành tựu to lớn, vượt bậc, có ý nghĩa lịch sử, tạọ nên thế và lực mới, giúp củng cố niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, vào mục tiêu xây dựng Việt Nam hùng cường đến năm 2045, trở thành nước phát triển hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến giữa thế kỷ XXI; đồng thời cũng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sự vận hành hiệu quả của cả hệ thống chính trị nước ta trong thế giới biến đổi phức tạp như hiện nay.

Hai là, công cuộc đổi mới ở Việt Nam là toàn diện, được thực hiện đồng bộ, có nguyên tắc, lộ trình và bước đi thích hợp.

Với luận điệu phản bác cho rằng, “Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị”, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền là hoàn toàn chưa hiểu và đánh giá khách quan về công cuộc đổi mới Việt Nam. Có thể đưa ra các lập luận và luận cứ như sau:

Đổi mới ở Việt Nam là toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… Lộ trình và tư duy, nguyên tắc chỉ đạo đổi mới ở nước ta đã được xác định rõ trong Văn kiện của Đảng từ Đại hội lần thứ VI (1986).

Đại hội VI khẳng định, phải đổi mới từ kinh tế đến chính trị và các lĩnh vực khác. Trong đó, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị được xác định rõ ràng trong Hội nghị Trung ương 6 khoá VI: “chúng ta tập trung làm tốt đổi mới kinh tế; đồng thời, từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007:745).

Tiếp sau, Đại hội lần thứ VII khẳng định tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996:14), “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006:70). Đại hội lần thứ XI nhấn mạnh, “đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011:99-100).

Tổng kết 30 năm Đổi mới, Đại hội XII khẳng định thành tựu về giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, Đại hội XII cũng thẳng thắn thừa nhận rằng đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Từ đó, Đại hội xác định rõ trong điều kiện hiện nay, cần tập trung đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị. Kết quả nhiệm kỳ 2016 - 2021 đã cho thấy Đảng đã ban hành nhiều quyết sách chính trị, nghị quyết nhằm hoàn thiện hoá đổi mới thể chế chính trị trên nhiều phương diện như công tác xây dựng Đảng, tổ chức bộ máy, kiểm soát quyền lực, phương thức lãnh đạo của Đảng,…[3]. Đặc biệt, Đại hội lần thứ XIII nội hàm về đổi mới kinh tế và chính trị được nhận thức và làm rõ thêm, như: “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về hệ thống chính trị…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021:57), và định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2035 là: “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường… tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021:114).

Rõ ràng, luận điệu cho rằng, Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị là hoàn toàn bịa đặt. Âm mưu thúc bách nước ta đổi mới nhanh chóng, khẩn trương về chính trị của các thế lực thù địch với mong muốn chúng ta mắc sai lầm, tổn hại đến mất chế độ hay vai trò của Đảng là mong muốn thâm độc của họ. Bài học về sự cải tổ quá nhanh chóng dẫn đến sụp đổ của Liên Xô cùng với bài học về quá trình cải cách, đổi mới thận trọng, có lộ trình, bước đi phù hợp với thực tiễn, giữa đổi mới kinh tế và chính trị của Trung Quốc thời gian qua là bài học kinh nghiệm quý giá, xương máu mà Việt Nam ta đã tích luỹ và học hỏi rất thận trọng.

Ba là, phản bác luận điểm của các thế lực thù địch khi cho rằng, thành tựu đổi mới của Việt Nam hơn 35 năm nhưng vẫn là một quốc gia thiếu dân chủ, nhân quyền hoàn toàn bịa đặt và sai sự thật

Nguyên tắc bất di bất dịch và là bản chất cả chế độ ta là nước dân chủ, tự do - dân chủ - nhân quyền của nhân dân luôn được tôn trọng và phát huy, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực hoàn thiện các quan điểm về dân chủ, nhân quyền và coi việc thể chế hoá, luật hoá quan điểm về dân chủ, nhân quyền là yêu cầu bức thiết của phát triển.

Năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, khẳng định “phải phát huy quyền làm của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng”; sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP (đến năm 2003 thay thế bằng Nghị định 79/2003/NĐ-CP) về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã; năm 2007, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua Pháp lệnh thực hiện Dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Bên cạnh đó, trong huy động sức dân, phát huy dân chủ xã hội còn được thể hiện ở nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát” và trong Văn kiện Đại hội XIII lần đầu tiên nội dung “dân thụ hưởng” được bổ sung vào nguyên tắc ấy thành “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc quan điểm: “dân là gốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021:96), hay phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021:173), dân chủ (xã hội chủ nghĩa) không chỉ là khát vọng mà còn là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tất cả luận cứ trên đều cho thấy sự thống nhất, đồng bộ về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này một lần nữa bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch cho rằng thành tựu đổi mới của Việt Nam không đi kèm dân chủ.

Về nhân quyền, Chỉ thị số 12-CT/TW của Ban Bí thư ngày 12/7/1992 về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta đều khẳng định: Quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Đó là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức, bóc lột và giải phóng con người; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được đảm bảo rộng rãi, đầy đủ và trọn vẹn nhất (Vũ Văn Hiền, 2020:42-43), hay Quyết định số 366/QĐ-TTg ngày 11/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền trong tình hình mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội XI, XII, XIII của Đảng đều nhất quán nhấn mạnh đến quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.

Đáng chú ý, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã dành trọn Chương II (chỉ sau Chương I bàn về chế độ chính trị) để hiến định “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” với 36 điều. Từ năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 05/9/2017 về phê duyệt Đề án “Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Đặc biệt, Văn kiện XIII lần đầu tiên đề cập nhiều và nhấn mạnh đến đến yếu tố “hạnh phúc”, “ấm no” của nhân dân, đến nâng cao “phúc lợi xã hội” cho người dân bên cạnh việc đảm bảo cơ bản “an sinh xã hội”,… như là mục tiêu phấn đấu và trách nhiệm cao cả của Đảng và hệ thống chính trị đối với Nhân dân và đất  nước. Bên cạnh đó, việc đảm bảo nhân quyền của Việt Nam cũng được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao như trở thành thành viên chính thức (14 thành viên) Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2014 - 2016 với 184/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc ủng hộ, tuyên bố tham gia ứng cử vào vị trí thành viên của Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023 - 2025; năm 2019, Việt Nam đã gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế về áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể, tham gia Cam kết Tự nguyện Toàn cầu về quyền trẻ em và Tuyên bố Trường học An toàn,... Liên hợp quốc xác nhận Việt Nam là quốc gia đứng thứ 2 khối châu Á - Thái Bình Dương và thứ 9/135 quốc gia về tỉ lệ phụ nữ làm việc trong Chính phủ, là nước đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em, tham gia ký kết, gia nhập hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người. Đặc biệt, trong việc thực hiện quyền con người theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Liên hợp quốc, Việt Nam đã bảo vệ thành công báo cáo của mình tại cả hai chu kỳ (1 và 2) năm 2009 và 2014, chu kỳ III năm 2019 đồng thời tiếp thu các ý kiến đóng góp xây dựng của các nước khác, cũng như tích cực đóng góp ý kiến cho các quốc gia khác về tình hình thực hiện quyền con người tại các chu kỳ này,…

Không thể phủ nhận rằng, trong quá trình quản lý xã hội, nước ta còn những khiếm khuyết, hạn chế trong đảm bảo quyền dân chủ, ở địa phương này địa phương kia vẫn còn hiện tượng lợi ích của người dân chưa được tôn trọng, đảm bảo, việc triển khai chính sách đảm bảo quyền con người chưa theo kịp yêu cầu xã hội,… Tuy nhiên, thành quả trong chống dịch COVID-19, đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân vừa qua và nỗ lực trong thực hiện dân chủ, nhân quyền suốt thời gian qua được cộng đồng quốc tế ghi nhận là minh chứng sống động để bác bỏ luận điệu sai trái, xuyên tạc, phiến diện, cực đoan về tình hình nhân quyền của Việt Nam.

3. Một số đề xuất, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tác, thù địch trong tình hình mới hiện nay

Để công tác đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có hiệu quả, các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:

Một là, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, cơ quan chuyên trách thực hiện Nghị quyết 35,… trong xây dựng lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu, nhất là cơ quan nghiên cứu, cơ quan báo chí, các Học viện, nhà trường, đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên, đấu tranh thông qua luận cứ thuyết phục có tính chuyên môn cao, tính chuyên sâu và tính chuyên nghiệp của lực lượng nòng cốt, nhất là đấu tranh ở tầm lý luận, quan điểm, buộc đối phương phải “tâm phục khẩu phục”.

Hai là, duy trì, tổ chức thực hiện tốt việc đấu tranh trên các phương tiện thông tin đại chúng, lấy các cơ quan báo chí (nhất là Đài Truyền hình, Đài Phát thanh quốc gia,…), tuyên truyền vào khung “giờ vàng”,… làm nòng cốt để vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, định hướng dư luận xã hội. Đồng thời, thiết lập các trang, nhóm, tài khoản mạng xã hội nhằm tiếp cận, chia sẻ thông tin tham gia đấu tranh phản bác trên internet, mạng xã hội với các hình thức, phương pháp linh hoạt; chú trọng chia sẻ thông tin tích cực, bài viết chuyên sâu của các cơ quan báo chí, học viện, nhà trường tạo “dòng chủ lưu” thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy thông tin tích cực đẩy lùi thông tin tiêu cực”.

Ba là, chủ động nắm tình hình, phát hiện kịp thời hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đại hội Đảng lần thứ XIII, kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026,… của các thế lực thù địch, phản động để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thông tin - truyền thông. Vận dụng các quy định của pháp luật, nhất là Luật An ninh mạng yêu cầu các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet, các doanh nghiệp nước ngoài như Google, Youtube, Facebook, Viber… phải tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam; hợp tác trong xử lý thông tin xuyên tạc tại Việt Nam, thu thập chứng cứ để xử lý các đối tượng chống phá Nhà nước; gỡ bỏ hoặc trực tiếp ngăn chặn những thông tin xấu được phát tán trên hệ thống của các doanh nghiệp này.

Bốn là, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu và hiệu quả của công tác tuyên truyền về tư tưởng, lý luận; làm cho cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên thấy rõ bản chất của thông tin phản động, xuyên tạc; có tinh thần cảnh giác, khả năng nhận diện và “miễn dịch” các nội dưng thông tin xuyên tạc, thù địch.

Năm là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí, truyền thông, Internet và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực này. Qua đó chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các trang mạng độc hại, các blog “đen” thường đăng tải các tin, bài, phim có nội dung xấu, độc hại, trái với quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc của số phóng viên, nhà báo thoái hóa, biến chất; những đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị; phát hiện các tài liệu, bài viết tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc, thù địch để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, tính toán sử dụng các giải pháp về công nghệ để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu độc trên các trang mạng. Đặc biệt, phải chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để xâm nhập, chiếm quyền quản trị, điều hành các trang web, blog, diễn dàn mạng xã hội, sau đó xóa dữ liệu, vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung “độc hại” trong một thời gian nhất định.

Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhất là công cuộc phòng, chống đại dịch COVID-19 hiện nay; không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, từ đó củng cố niềm tin và thế trận lòng dân với Đảng, Nhà nước và chế độ. Chú ý giải quyết kịp thời, dứt điểm các mâu thuẫn phức tạp, kéo dài, các vụ đình công, lãn công, khiếu kiện đất đai... ngay từ cơ sở, không để hình thành “điểm nóng”; không để kẻ địch lợi dụng chống phá.

Bảy là, cán bộ, đảng viên tuân thủ nghiêm Điều lệ Đảng, Quy định về những điều không được làm của Đảng viên, chủ động học tập, nghiên cứu chuyên sâu lý luận chính trị trên từng cương vị công tác, qua hội nghị, diễn đàn sinh hoạt chính trị của tổ chức Đảng; nêu cao tinh thần tự học, tự nghiên cứu, kiên quyết tránh bệnh “lười học lý luận chính trị”; luôn biết phản biện, bảo vệ và phát triển lý luận chính trị của Đảng trong tình hình mới.

4. Kết luận

Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền và thành quả cách mạng càng khó hơn. Sự nghiệp đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, việc cung cấp luận cứ, lập luận trên nền khoa học lý luận và thực tiễn để bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thành tựu của quá trình đổi đất nước có tính cần thiết và quan trọng. Thông qua cứ liệu thực tiễn và lý luận, bài viết đã phân tích, đánh giá những thủ đoạn, nội dung xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch triển 2 nhóm vấn đề là đối với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng và thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước hơn 35 năm qua; đồng thời, gợi mở một số giải pháp để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong điều kiện và tình hình mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Anh, H. (2020, ngày 22 tháng 3). “Việt Nam tăng vượt bậc trong Báo cáo Chỉ số hạnh phúc của Liên hợp quốc”. Truy xuất từ https://bvhttdl.gov.vn/viet-nam-tang-bac-trong-bao-cao-chi-so-hanh-phuc-nam-2020-20200322081743578.htm, trích đọc ngày 05/4/2021.

2. Mác, C., & Ăngghen, Ph. (1995). Toàn tập. t.19. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng toàn tập. t.49. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. tập 1. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

8. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. (2019). Kiên định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch. , Hà Nội: Nxb Lý luận chính trị.

9. Hồ Chí Minh. (2011a). Toàn tập. t.2. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

9. Hồ Chí Minh. (2011b). Toàn tập. t.12. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

10. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2020). 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

11. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2017). Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc: Cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” về chính trị trong Đảng. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

12. Vũ Văn Hiền. (2020). Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng. tập 1. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

13. Đinh Thế Huynh và cộng sự. (2015). 30 năm đổi mới và phát triển. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

14. Phùng Hữu Phú và cộng sự. (2016). Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm Đổi mới. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

15. Lênin, V.I. (1977). Toàn tập. t.36. Hà Nội: Nxb Tiến bộ.

 

[1] Có thể kể đến các tổ chức quốc tế và khu vực, cơ quan báo chí truyền thông nước ngoài như Liên hợp quốc (UN), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), báo Les Echos của Pháp, New York Times của Mỹ, hãng tin Sputnik (Nga), trang Times of India (Ấn Độ), Trang Asia Times, tuần báo lObs (Pháp), tờ Nikkei Asia Review (Nhật Bản), Trang mạng channelnewsasia.com, Trang proactiveinvestors.co.uk (Anh),…

[2] Việt Nam đã hỗ trợ trang thiết bị y tế trị giá hơn 7 tỷ đồng cho Lào, cho Campuchia; hỗ trợ Indonesia 500 dụng cụ xét nghiệm; Myanmar 50.000 USD hay mới nhất là 35.000 khẩu trang; tặng Trung Quốc vật tư, trang thiết bị y tế gồm máy thở, quần áo sát khuẩn, găng tay, khẩu trang y tế với tổng trị giá 500.000 USD; hỗ trợ khẩu trang, vải kháng khuẩn chống giọt bắn, quần áo bảo hộ DuPont do Việt Nam tự sản xuất để giúp Nhật Bản, Nga, Pháp, Đức, Italy, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ, Thụy Điển… phòng, chống dịch COVID-19.

[3] Các nghị quyết có thể kể đến như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khoá XI, XII về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chạy chức chạy quyền; Nghị quyết số 18-NQ/TW về đổi mới, sắp xếp hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Quy định 89-QĐ/TW của BCH Trung ương về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Quy định 90-QĐ/TW ngày 4/8/2017 của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ diện Ban Bí thư quản lý, Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 về trách nhiệm nêu gương,….

Phạm Thị Pha Lê