Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến nay đã hơn hai thập kỷ và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, một số cá nhân ở trong nước lẫn ngoài nước vẫn chưa có nhận thức khách quan, khoa học, đầy đủ về vấn đề này; nên đã đưa ra các luận điệu sai trái, phản cách mạng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bằng các phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, lô gích và lịch sử, tác giả đã chỉ ra tính tất yếu khách quan sự phát triển của kinh tế thị trường của nhân loại; bên cạnh đó tác giả đi sâu phân tích sự cần thiết, phù hợp, sáng tạo của Đảng ta, kết quả đạt được cũng như một số tồn tại, hạn chế trong quá trình xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay để phản bác các luận điệu sai trái đó.

MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, một số người ở trong nước lẫn ngoài nước với những mục đích và động cơ khác nhau đã thể hiện quan điểm, thái độ không thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội là hai mặt đối lập, mâu thuẫn, bài trừ, phủ định lẫn nhau; kinh tế thị trường gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa là sự gắn ghép chủ quan duy ý chí, phản khoa học của Đảng ta. Một số người còn lớn tiếng nói: nếu như bỏ đi cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì Việt Nam đã “hoá Rồng”, “hoá Hổ” lâu rồi; bởi vì “cái đôi” đó mà kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt, những năm gần đây lợi dụng sự phát triển của truyền thông, thông tin, nhất là mạng internet; các luận điệu đó lại có dịp phát tán, lan rộng trong xã hội. Từ sự phát tán, lan rộng đó đã làm cho một bộ phận nhân dân, trong đó có một số cán bộ, đảng viên hoang mang, giao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Hơn thế nữa, những luận điệu đó còn gây phương hại đến quá trình vận động các quốc gia trên thế giới công nhận nền kinh tế thị trường ở Việt Nam; cản trở chúng ta tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư, các chính sách ưu đãi trong hoạt động thương mại. Chính vì vậy, việc nhận diện và chủ động đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, đồng thời khẳng định tính khách quan, khoa học, đúng đắn của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một trong những nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

NỘI DUNG

Sau một thời gian tìm tòi nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tại Đại hội lần thứ XI (tháng 4 năm 2001), lần đầu tiên khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức sử dụng trong Văn kiện của Đảng; theo đó, “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[1]. Từ đó đến nay đã hơn 20 năm, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhiều luận điệu xuyên tạc, sai trái; song Đảng ta vẫn kiên định mô hình tổng quát đó, lấy mô hình đó làm đường lối chiến lược nhất quán trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thứ nhất, kinh tế thị trường là sản phẩm phát triển của nhân loại

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển tất yếu, khách quan của lịch sử mà bất kỳ nền kinh tế của quốc gia nào cũng phải trải qua. Bởi nó bắt nguồn từ sự tồn tại và phát triển của con người; theo đó, muốn tồn tại, con người cần phải có thức ăn, đồ mặc, nhà ở và những thứ cần thiết khác. Để có những thứ đó con người phải tạo ra chúng, nghĩa là con người phải tiến hành hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội loài người và là hoạt động riêng có và cơ bản nhất của con người. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân loại đã nhận thấy sự phát triển không ngừng của con người và xã hội loài người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Con người từ chỗ chỉ biết săn bắt và hái lượm những gì có sẵn trong tự nhiên; đến việc biết chăn nuôi và trồng trọt để tạo ra nguồn lương thực, thực phẩm nhiều hơn và chủ động hơn nhằm thoả mãn như cầu của bản thân và cộng đồng; từ chỗ chỉ biết sử dụng những công cụ thô sơ, tạo ra của cải vật chất chỉ đủ đáp ứng nhu cầu của mình và cộng đồng mình; đến chỗ sử dụng những công cụ lao động tiên tiến hơn để sản xuất, tạo ra của cải dư thừa không sử dụng hết. Một khi cộng đồng này có sự dư thừa một sản phẩm nào đó nhưng lại cần những sản phẩm dư thừa của một cộng đồng khác tất yếu sẽ nảy sinh quá trình trao đổi của cải vật chất lẫn nhau. Đặc biệt, khi lực lượng sản xuất phát triển, nhất là khi có chế độ tư hữu và có sự phân công lao động thì quá trình sản xuất và trao đổi diễn ra thường xuyên hơn và ở phạm vi rộng lớn so với trước hơn. Cứ thế, con người đã thúc đẩy từ hình thái kinh tế tự nhiên tự cung, tự cấp thoả mãn nhu cầu trực tiếp của mình, cộng đồng mình chuyển lên một hình thái kinh tế cao hơn là kinh tế hàng hoá - ở đó sản phẩm sản xuất ra không chỉ phục vụ nhu cầu một người, hay một cộng đồng người mà để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường, phục vụ cho nhiều người, cho xã hội. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng; trong các chế độ chiếm hữu nô lệ hay phong kiến, phần đông người lao động còn bị lệ thuộc thân thể của mình vào các chủ nô, các địa chủ; khi đó họ chưa được tự do về thân thể, nên không thể có quyền được bán sức lao động của mình và kinh tế hàng hoá chưa có điều kiện phát triển mạnh. Bước sang xã hội tư bản, khi sự phân công lao động và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất diễn ra sâu sắc hơn đã làm cho quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa trở thành phổ biến trong xã hội từ đó làm cho kinh tế hàng hoá ra đời. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế háng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau mà có sự khác nhau về trình độ phát triển, song về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và bản chất.

Như vậy, xã hội loài người đi từ kinh tế tự nhiên, sản xuất tự cấp tự túc phát triển thành sản xuất hàng hóa, rồi từ sản xuất hàng hóa trở thành kinh tế thị trường. Đó là quá trình phát triển tất yếu khách quan, vừa phù hợp quy luật tiến bộ của xã hội xã hội loài người, vừa phù hợp quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thành quả đó có mầm mống từ xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và đến xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển ở trình độ cao nhất. Trong xã hội tư bản, kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào nhau thành một chính thể thống nhất, chi phối toàn bộ cuộc sống của con người; chính điều đó đã làm cho không ít người ngộ nhận rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà không biết nó là thành tựu văn minh chung của nhân loại.

Thứ hai, xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự sáng tạo, bổ sung lý luận của Đảng ta  

Lịch sử phát triển của kinh tế thị trường cho chúng ta thấy, bên cạnh những mặt tích cực như: thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, buộc người sản xuất phải năng động, sáng tạo, khoa học, công nghệ phát triển…thì kinh tế thị trường cũng liên tục bộ lộ những mặt hạn chế, cản trở sự phát triển của chính bản thân nó như: khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ, phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, xung độ xã hội, suy thoái văn hoá, môi trường… Để khắc phục những khuyết tật bẩm sinh, tạo điều kiện cho nó phát triển ổn định, cân bằng hơn, nhà nước ở các quốc gia đã có sự can thiệp, điều tiết ở các mức độ khác nhau. Chính sự can thiệp, điều tiết đó đã tạo nên các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới như:

Kiểu thứ nhất, kinh tế thị trường tự do, được thực hiện ở hầu hết các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình này hạn chế sự can thiệp, điều tiết của nhà nước ở mức thấp, trong khi đó đề cao sự vận hành tự do của quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh. Sự tham gia của nhà nước vào quá trình phân bổ hệ thống phúc lợi xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại của thị trường, tuy vẫn được coi trọng nhưng không nhiều. Kiểu thứ hai, kinh tế thị trường xã hội, thực hiện ở một số nước Tây - Bắc Âu (điển hình là nước Đức - quê hương của mô hình kinh tế này). Đây là một nền kinh tế mà trong đó nhà nước bảo đảm tự do hoạt động kinh tế, nhưng có chính sách quản lý, điều tiết về kinh tế, cũng như về xã hội, để đạt được sự cân bằng về xã hội. Đặc trưng nổi bật của mô hình này là: ngoài mục tiêu lợi nhuận, phát triển kinh tế cũng rất coi trọng các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo và cho người lao động, quyền tự do...). Kiểu thứ ba, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mà Cộng hòa nhân dân Trung Hoa áp dụng…Trung Quốc muốn khẳng định với thế giới một mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu mới mà Trung Quốc đã lựa chọn: chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Mô hình này cũng áp dụng các quy luật kinh tế thị trường, nhưng nhà nước can thiệp mạnh hơn vào thị trường, đồng thời tác động nhiều vào tính xã hội”[2]. Qua khảo sát trên cho thấy, xuất phát từ tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất, đặc điểm về chế độ chính trị, truyền thống văn hoá, mục tiêu của các Chính phủ… mà mỗi quốc gia đã xây dựng cho mình một mô hình kinh tế thị trường riêng, ở đó không có một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do, mà luôn có sự kết hợp giữa bàn tay nhà nước và ban tay vô hình của thị trường. Đặc biệt, khi các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra, nhất là đại dịch Covid 19 hiện nay đã làm cho các quốc gia thấy rõ ý nghĩa, giá trị sự can thiệp, điều tiết của nhà nước nhằm đem lại cho nền kinh tế sự phát triển hài hoà, bền vững.

Từ thực tiễn ở các quốc gia, với tư cách là nước đi sau, chúng ta đã xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, vừa vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, vừa có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế đó có đặc trưng, thuộc tính quan trọng vừa thể hiện tính ưu việt hơn so với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa đang áp dụng, vừa yêu cầu có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, nhân văn theo định hướng xã hội chủ nghĩa là: “gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”[3]; và “không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn” [4].

Như vậy, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng không phải là áp đặt theo một khuôn mẫu nào, cũng không phải là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí; mà đó là kết quả của quá trình kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới và sự vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện ở nước ta. Đây là sự đóng góp, bổ sung có giá trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trên phương diện lý luận và thực tiễn để từ đó làm cho kinh tế thị trường đương đại phong phú và sâu sắc hơn.

Thứ ba, xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu tất yếu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam

Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết kế thừa và tận dụng, phát huy những mặt tích cực, lợi thế của nó để phát triển. Đối với Việt Nam, chúng ta bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề; việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp đã làm cho đất nước trì trệ, kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật, yêu cầu khách quan của đất nước; mặt khác việc xây dựng mô hình kinh tế thị trường còn tạo điều kiện để chúng ta khai thác, phát huy có hiệu quả các nguồn lực, từ đó xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Kết quả sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới cho thấy: việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự cần thiết, là sự lựa chọn sáng suốt, đúng hướng vì thế đã đạt được những kết quả rất tích cực.

Sau 35 đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày càng đầy đủ; “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”[5]. Bên cạnh đó, “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” [6]. Có thể nói, với đường lối đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế một cách sáng tạo, phù hợp với yêu cầu, điều kiện khách quan của đất nước và xu thế của thời đại; chúng ta đã giải phóng mạnh mẽ năng lực sản xuất của xã hội, các nguồn lực được khơi thông và phát huy có hiệu quả, từ đó đã ra tạo động lực cho nền kinh tế tăng trưởng đạt được những thành tựu to lớn.

Việt Nam từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, thiếu ăn, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm; thì nay đã trở thành một trong những cường quốc nông nghiệp hàng đầu thế giới, kinh tế - chính trị - xã hội đi vào ổn định, nền kinh tế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Sau 35 năm đổi mới, GDP tăng 12 lần, GDP đầu người tăng 8,3 lần; xuất – nhập khẩu tăng 29,5 lần; vốn FDI tăng 22 lần so với năm 1986; dự trữ hối đoái tăng 47,6 lần so với năm 1997[7]. Trong năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 nhưng nền kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng gần 3%, là một trong những nước hiếm hoi trên thế giới có tăng trưởng dương, thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 3.500 USD. Kinh tế tăng trưởng cao, ổn định đã giúp chúng ta có thêm nguồn lực để hiện thực hoá các mục tiêu chăm sóc con người, vì con người, với quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Theo đó, tỷ lệ nghèo tính theo chuẩn chung giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6% năm 2018; từ năm 2002 đến năm 2018 đã có hơn 45 triệu người thoát nghèo[8]. Trên lĩnh vực y tế, tuổi thọ, chăm sóc sức khoẻ cho người dân: từ năm 1993 đến 2017: “tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên 1.000 trẻ sinh); tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong thời gian từ năm 1990 đến 2016; chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73 - cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới – với 87% dân số có bảo hiểm y tế”[9]. Trên lĩnh vực giáo dục: hiện nay tỷ lệ trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN. Đối với an sinh xã hội, nếu năm 2010 cả nước mới có 9,5 triệu người tham gia Bảo hiểm xã hội thì đến năm 2018 đã tăng lên 14,7 triệu người, chiếm 30,4% lực lượng lao động trong độ tuổi. Đối với Bảo hiểm y tế, nếu như năm 2010 tỷ lệ bao phủ mới đạt 60,9% dân số thì đến năm 2020 đã đạt gần 91%, với gần 88 triệu người tham gia[10]. Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020[11], cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế. Đặc biệt trong đại dịch Covid-19, Chính phủ Việt Nam không chỉ quyết liệt trong việc phòng, chống dịch; đẩy mạnh nghiên cứu, mua và tiêm vacxin; mà còn thực hiện các gói hỗ trợ cho người dân, đặc biệt là những người khó khăn, người yếu thế, các doanh nghiệp gặp khó khăn…Với những kết quả đạt được khá toàn diện kể trên là những minh chứng cụ thể, cơ sở để chúng ta khẳng định, việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với Việt Nam; mà còn cho thấy bản chất, tính ưu việt, nhân văn, vì con người của chế độ ta đang xây dựng.

Thứ tư, một số hạn chế và giải pháp hoàn thiện, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thời gian tới

Một là, bên cạnh những thành tựu, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như:

Trước hết, đó là về nhận thức: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thẳng thắn thừa nhận: “Nhận thức một số vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa sâu sắc, thống nhất, nhất là quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, sở hữu đất đai, phân bố nguồn lực, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, hợp tác xã, tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập…Tư duy trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chậm được đổi mới, sức ỳ còn lớn”[12]. Có thể nói, chính sự hạn chế về nhận thức đó không chỉ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta đề ra trong giai đoạn 2016 – 2020 không đạt được mục tiêu; mà một số mục tiêu có tính chiến lược khác đến năm 2020 mà các kỳ đại hội Đảng trước đó đề ra cũng không hoàn thành nhiệm vụ.

Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường của chúng ta hiện vẫn là nền kinh tế thị trường phát triển chủ yếu theo chiều rộng, chậm phát triển theo chiều sâu, kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định vững chắc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; năng lực cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế còn khá hạn chế; quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ, môi trường kinh doanh chưa thực sự đảm bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; các loại thị trường như: thị trường tài chính, thị trường bất động sản phát triển nóng, tiềm ẩn nhiều rủi ro; giá cả một số mặt hàng, dịch vụ thiết yếu chưa thực sự tuân theo các nguyên tắc, quy luật của kinh tế thị trường; năng suất lao động còn thấp…

Không những thế, tại Đại hội XIII Đảng ta cũng chỉ rõ: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng bộ, đầy đủ để đảm bảo thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả. Một số thị trường chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, nhất là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, thiếu chặt chẽ, chưa ổn định. Vẫn còn các điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý, ban hành giấy phép con trái quy định. Thiếu cơ chế, chính sách thí điểm các mô hình kinh doanh mới, mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả”[13]. Chính những hạn chế đó đang tạo ra các nút thắt, điểm nghẽn kìm hãm trong việc khai thác, huy động các nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ.

Ngoài ra, các vấn đề như: phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng; công tác chăm sóc sức khoẻ, y tế, giáo dục ở một số vùng, nhất là các vùng miền núi, hải đảo còn gặp nhiều lúng túng, hiệu quả mang lại chưa cao; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, công nhân sinh sống và làm việc tại các khu công nghiệp ở các đô thị chậm được cải thiện; chính sách an sinh xã hội có độ bao phủ chưa hết các đối tượng, nhất là các đối tượng yếu thế; văn hoá, đạo đức, truyền thống dân tộc chưa được coi trọng đúng mức…

Hai là, để hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:

Trước hết, cần nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi khi mỗi người dân, nhất là mỗi cán bộ, đảng viên có nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về nội dung, đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì khi đó sẽ tạo ra sự đồng thuận, thống nhất trong xây dựng cũng như trong việc tổ chức triển khai thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế thị trường ở nước ta có hiệu quả.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tập trung tháo gỡ các nút thắt, điểm nghẽn, tạo không gian cho sự phát triển. 1) Cần xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Có chính sách hỗ trợ, ưu đãi nhằm khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Cần tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở sự phát triển của kinh tế; cùng với đó là việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành. 2) Cần có các chính sách nhằm tạo điều kiện tốt nhất để phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố thị trường, các loại thị trường, trong đó đáng chú ý là thị trường trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại như: tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, khoa học và công nghệ ..... 3) Cần hoàn thiện thể chế, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước cần phải cơ cấu lại, đẩy nhanh cổ phần hoá. Đối với các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến kích phát triển mạnh mẽ hơn. Đối với kinh tế tư nhân cần hoàn thiện thể chế để thúc đẩy sự phát triển, khuyến kích đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, thực hiện trách nhiệm với xã hội.

Ngoài ra, cần hoàn thiện các chính sách để làm công cụ điều tiết, phân phối kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của xã hội có được một cách hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội; cần đặc biệt coi trọng và có chính sách điều chỉnh kịp thời các biểu hiện đi xuống của xã hội như văn hoá, đạo đức, tham nhũng, môi trường.

KẾT LUẬN

Từ lý luận đến thực tiễn đều cho chúng ta thấy tính tất yếu và tính phổ biến của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phải là mô hình chung cho mọi quốc gia mà phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, truyền thống văn hoá, thể chế chính trị… quy định nên đặc trưng, thuộc tính khác nhau. Chính vì vậy, việc luôn tồn tại tính phổ biến, tính đặc thù trong nền kinh tế thị trường ở mỗi đất nước là điều tất yếu. Vì vậy, chúng ta cần giữ vững niềm tin tuyệt đối vào sự lựa chọn và lãnh đạo của Đảng; đồng thời cần lên án các luận điệu xuyên tạc, thiếu khách quan, phản khoa học của một số phần tử thiếu thiện chí khi phán xét về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Sự thật, tập I, Hà Nội
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Sự thật, tập II, Hà Nội
  4. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/dau-tranh-phan-bac-cac-luan-dieu-sai-trai-thu-dich/chi-tiet/-/asset_publisher/YqSB2JpnYto9/content/nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-mo-hinh-sang-tao-cua-viet-nam
  5. https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/
  6. https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/
  7. https://vnexpress.net/kinh-te-viet-nam-sau-35-nam-doi-moi-4226415.html
  8. https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview
  9. https://nhandan.vn/bhxh-va-cuoc-song/iem-sang-an-sinh-632079/
  10. http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Phat-trien-ben-vung-la-viec-phai-lam/416696.vgp
 

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 23

[2] https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/dau-tranh-phan-bac-cac-luan-dieu-sai-trai-thu-dich/chi-tiet/-/asset_publisher/YqSB2JpnYto9/content/nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-mo-hinh-sang-tao-cua-viet-nam

[3] https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/

[4] https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/

[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập I), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.59-60.

[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập II), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.31.

[7] https://vnexpress.net/kinh-te-viet-nam-sau-35-nam-doi-moi-4226415.html

[8] https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview

[9] https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview

[10] https://nhandan.vn/bhxh-va-cuoc-song/iem-sang-an-sinh-632079/

[11] http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Phat-trien-ben-vung-la-viec-phai-lam/416696.vgp

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Sự thật, tập II, Hà Nội, tr.78.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Sự thật, tập II, Hà Nội, tr.67-68.

Biền Quốc Thắng