Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp của thế giới, các thế lực phản động luôn tìm mọi cách để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Bài viết nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, góp phần quan trọng vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Bài viết đạt giải Khuyến khích Cuộc thi viết chính luận khoa học “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, lần thứ nhất, năm 2021.
1. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch
Ngay sau khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển đến nay, CNXH khoa học luôn là tiêu điểm của cuộc đấu tranh tư tưởng - chính trị quyết liệt. Trung tâm của cuộc đấu tranh đó trước hết là học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Đề tài này đã và đang chiếm một vị trí lớn trong các nghiên cứu của các học giả tư sản thuộc các khuynh hướng chính trị, tư tưởng khác nhau.
Hiện nay, sau khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới từ lưỡng cực chuyển thành đơn cực và đang chuyển sang đa cực, đa trung tâm; từ Chiến tranh Lạnh chuyển sang hình thái vừa hợp tác, vừa đấu tranh giữa các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Cùng với đó, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, vai trò của tri thức ngày càng quan trọng trong mọi tiến trình phát triển của đời sống xã hội. Trước tình hình đó, xuất hiện nhiều luận thuyết theo các khuynh hướng tư tưởng - chính trị như: thuyết “phân tầng xã hội”, thuyết “điều hòa giai cấp”, với mưu đồ bác bỏ sự tồn tại của giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tựu trung lại, họ cho rằng: Một, sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu cho thấy giai cấp công nhân và đảng cộng sản không đủ khả năng để lãnh đạo xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản. Hai, ngày nay, trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, giai cấp công nhân không đủ khả năng để vận hành nền sản xuất, vai trò đó thuộc về tầng lớp trí thức. Ba, ở các nước tư bản hiện nay, giai cấp tư sản không còn nắm độc quyền về công cụ sản xuất, tư bản đã phổ biến trong các tầng lớp nhân dân; giai cấp vô sản không còn nữa, mà đã hòa vào giai cấp tư sản, có sở hữu cổ phần, cổ phiếu và thu nhập từ lợi nhuận doanh nghiệp, đã trở thành “giai tầng trung lưu”. Bốn, trong thời đại toàn cầu hóa, không có cơ sở khách quan cho việc phân biệt hệ tư tưởng và đấu tranh giai cấp, nên giai cấp vô sản (nếu có) cũng không còn sứ mệnh tiên phong trong đấu tranh để lật đổ chủ nghĩa tư bản...
Mặt khác, các thế lực thù địch, phản động lại ra sức tuyên truyền cho chủ nghĩa tư bản là “tốt đẹp hơn cả”, là “vĩnh hằng”. Bằng các thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt, họ gieo rắc trong công nhân, người lao động sự mơ hồ, ảo tưởng về lợi ích mà chủ nghĩa tư bản có thể đem lại cho giai cấp công nhân thông qua cái gọi là “cùng sống chung với chủ nghĩa tư bản”, hòng xóa nhòa ý thức hệ, làm cho giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển dao động, mất niềm tin vào phong trào cách mạng.
Hùa vào các luận điệu phản động và chủ nghĩa cải lương tư sản, các phần tử cơ hội, xét lại cũng ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác, đưa ra các quan điểm xuyên tạc, xóa nhòa mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản dưới các thuật ngữ mỹ miều như “ngôi nhà chung châu Âu”, “ngôi nhà chung thế giới”... chúng phỉ báng học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin là “những đồ vật cổ” xếp trong viện bảo tảng lịch sử bên cạnh “chiếc rìu bằng đồng và chiếc sa quay sợi”...
Việc các học giả tư sản và các thế lực thù địch đưa ra những quan điểm sai trái, xuyên tạc này trước hết là vì mục đích chính trị, nhằm đi đến bác bỏ CNXH khoa học. Vậy thực chất, trong xã hội tư bản ngày nay, giai cấp công nhân có vị trí, vai trò như thế nào? Chủ nghĩa tư bản có còn bóc lột không? Nếu còn bóc lột thì tại sao lại phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại này nay?...
Do đó, việc phê phán một cách khoa học và toàn diện những luận điệu phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vạch trần tính chất vô căn cứ của các luận điệu đó là một nhiệm vụ cấp bách, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
2. Không thể phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay
Một là, nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của các chế độ chính trị, xã hội trong lịch sử, đặc biệt là chế độ tư bản chủ nghĩa, C.Mác phát hiện ra rằng, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị diệt vong, bị thay thế bằng chế độ xã hội mới - chủ nghĩa cộng sản, và lực lượng có sứ mệnh quyết định quá trình đó là giai cấp công nhân hiện đại.
Giai cấp công nhân ra đời vào thế kỷ XVI, khi chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển. Mặc dù vậy, trong suốt một thời gian dài, giai cấp công nhân chưa phải là một giai cấp đã hình thành hoàn chỉnh. Sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản công nghiệp gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ XVIII. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển càng làm lộ rõ bản chất phản động của giai cấp tư sản, mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc.
Từ khi lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác ra đời và soi đường, với việc tổ chức ra đội tiên phong của mình, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đã chuyển từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (năm 1917) đánh dấu thắng lợi trong thực tiễn của CNXH khoa học, mở ra thời đại mới đối với lịch sử phát triển của nhân loại - quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. CNXH hiện thực chính là sản phẩm của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, từ thắng lợi ở một nước phát triển thành hệ thống, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống XHCN và tư bản chủ nghĩa là một biểu hiện của cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên quy mô toàn cầu.
Đứng trước nguy cơ chủ nghĩa tư bản bị diệt vong, giai cấp tư sản quốc tế đã tập hợp lại, điều chỉnh chiến lược toàn cầu, từng bước phản kích hệ thống XHCN và các lực lượng cách mạng trên toàn thế giới. Sau các thất bại của chiến lược tiến công quân sự, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, đã chuyển sang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nguy hiểm, tinh vi và thâm độc hơn. Bằng chiến lược này, chúng đã lợi dụng những khó khăn và khoét sâu vào những khiếm khuyết của CNXH trong quá trình phát triển, đẩy tới cuộc khủng hoảng làm sụp đổ nhanh chóng chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Tuy nhiên, nếu từ thất bại này mà kết luận giai cấp công nhân và đảng cộng sản không đủ khả năng lãnh đạo để xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn sai lầm.
Trên thực tế, CNXH hiện thực sau khi ra đời và phát triển đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Nếu không có CNXH hiện thực, liệu nhân loại có chặn đứng được thảm họa của chủ nghĩa phát xít không? Các lực lượng yêu chuộng hòa bình và nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc liệu có tự giải phóng được dân tộc mình khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc không? Câu trả lời chắc chắn là không.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là tổn thất rất lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, làm cho CNXH tạm thời lâm vào thoái trào. Sự thất bại này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, trực tiếp. Đó là sự sai lầm về đường lối của các đảng cộng sản ở những nước này, xa rời nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới, một số lãnh đạo cao cấp trở thành kẻ quan liêu, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, rơi vào chủ nghĩa xét lại, từng bước xa rời và phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH hiện thực chứ hoàn toàn không phải là sự sụp đổ của một học thuyết khoa học và cách mạng. Các nước XHCN còn lại tiếp tục kiên định, đổi mới, cải cách, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia dân tộc, đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn, chứng minh giá trị và sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Hai là, hiện nay, trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ phát triển rất nhanh, vai trò của tri thức đang ngày càng quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, trình độ của người lao động ngày một nâng cao. Tuy nhiên, nếu kết luận rằng hiện nay sứ mệnh lịch sử không còn thuộc về giai cấp công nhân, mà thuộc về tầng lớp trí thức là không đúng cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng: sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì người lao động với tư cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất cũng phát triển tương ứng là tất yếu. Vì vậy, nếu như đầu thế kỷ XIX, trong điều kiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, trình độ của giai cấp công nhân chủ yếu là lao động phổ thông trực tiếp đứng máy là do trình độ của nền sản xuất thời điểm đó quy định. Đến đầu thế kỷ XXI, với sự phát triển của kinh tế tri thức trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì trình độ của giai cấp công nhân cao hơn thế kỷ XIX là điều đương nhiên.
Trong thực tế nghiên cứu và luận chứng về giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn tổng kết và bổ sung vào nội hàm khái niệm giai cấp công nhân trong quá trình phát triển. Vì vậy, từ sau những năm 50 thế kỷ XIX, khi nghiên cứu quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản, C.Mác chỉ rõ rằng: trong giai cấp công nhân bắt đầu có sự phân tầng về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghề nghiệp, xuất hiện đội ngũ công nhân mới có trình độ cao hơn so với những công nhân lao động phổ thông trực tiếp đứng máy. Vì vậy, “thái độ của tư bản công nghiệp đối với những công nhân làm thuê cho nó trong thương nghiệp không giống thái độ đối với những công nhân làm thuê cho nó trong sản xuất... Người công nhân thương nghiệp theo đúng nghĩa của danh từ này thuộc về lớp công nhân làm thuê được trả công hậu nhất, lớp người mà lao động được xem là lao động lành nghề, ở trên mức lao động trung bình”(1).
Về sau, Ph.Ăngghen bổ sung thuật ngữ “giai cấp vô sản lao động trí óc” vào nội hàm khái niệm giai cấp công nhân, khi cho rằng đội ngũ giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, được đào tạo bài bản. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng cần phải có kỹ sư, bác sĩ, nhà hóa học, nhà nông học và các chuyên gia khác, vì không chỉ nắm lấy bộ máy chính trị, mà còn phải vận hành nền sản xuất(2).
Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong thời kỳ hiện đại đúng là đã đưa đến những biến động lớn trong sản xuất. Sự phát triển công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo đã đem lại khả năng làm cho người công nhân thoát khỏi tình trạng lao động giản đơn để trở thành con người sáng tạo bằng trí tuệ. Nhìn vào các nước tư bản phát triển ngày nay, phần lớn công nhân có trình độ đại học và sau đại học, kỹ sư và kỹ thuật viên, công nhân lành nghề trở thành phổ biến trong nền sản xuất. Việc rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào sản xuất đã dẫn đến thực tế các nhà nghiên cứu, các kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp, những người lao động gián tiếp gia nhập vào hàng ngũ giai cấp công nhân ngày càng đông. Sự thu nhỏ về quy mô của giai cấp công nhân lao động trực tiếp là sự lớn mạnh của giai cấp này ở những ngành nghề mới có trình độ cao, từ đó hình thành đội ngũ công nhân trí thức. Song, phải lưu ý rằng, chính những người công nhân có trình độ cao đó vẫn phụ thuộc vào máy tính điện tử hoặc những hệ thống sản xuất tự động hóa, mức độ bóc lột sức lao động của nhà tư bản đối với họ không hề bị giảm đi mà còn tăng lên rất nhiều.
Các thế lực sai trái, thù địch đã cố tình lập lờ khái niệm giai cấp công nhân, đồng nhất giai cấp công nhân với những người lao động chân tay, từ đó đưa ra cái gọi là sự “mất đi” của giai cấp công nhân, xóa mờ cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt trong chế độ tư bản, phủ nhận vai trò của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản, thủ tiêu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa để xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội XHCN.
Cần nhấn mạnh thêm rằng, xét từ góc độ kinh tế - kỹ thuật, thì trong điều kiện hiện nay, việc phân biệt giữa công nhân và trí thức trong nhiều trường hợp chỉ mang tính tương đối. Xét từ góc độ chính trị - xã hội, thì từ khi xã hội có giai cấp đến nay, chủ thể của mỗi chế độ bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định. Mặc dù trí thức từ bao đời nay có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, nhưng nó không phải là giai cấp, mà là một tầng lớp xã hội, nên không có hệ tư tưởng và phương thức sản xuất độc lập, mặc dù hệ tư tưởng của giai cấp thống trị thường được trí thức tổng kết và khái quát nên. Vì vậy, nếu nói tầng lớp trí thức thay thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay là hoàn toàn sai.
Ba là, hiện nay, ở các nước tư bản phát triển, việc công nhân có sở hữu cổ phần, cổ phiếu, đời sống cao hơn trước là một thực tế. Song, để từ đó cho rằng giai cấp công nhân đã hòa vào giai cấp tư sản, không còn sứ mệnh đấu tranh để xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa là không đúng.
Việc công nhân có cổ phần, cổ phiếu không phải là vấn đề mới, mà đã xuất hiện từ những thập niên cuối thế kỷ XIX. Đó là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản, buộc giai cấp tư sản phải điều chỉnh quan hệ sản xuất để mở đường cho sản xuất phát triển. Khi đề cập vấn đề này, C. Mác cho rằng: khi lực lượng sản xuất đạt trình độ xã hội hóa, thì việc công nhân có cổ phần chỉ là điểm quá độ để biến sở hữu của những nhà tư bản công nghiệp thành sở hữu trực tiếp của những người lao động sản xuất, “Đó là kết quả của sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp”(3), và “Đây là sự thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở ngay trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”(4).
Tuy nhiên, việc sở hữu cổ phần, cổ phiếu không làm thay đổi địa vị của giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản. Bởi vì, trên thực tế, số cổ phần, cổ phiếu mà giai cấp công nhân nắm giữ nhỏ hơn rất nhiều lần so với tổng tư bản do nhà tư bản nắm giữ, nên họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình phân chia lợi nhuận. Trong các công ty tư bản, giá trị của các ý kiến quyết định phương hướng kinh doanh của các xí nghiệp là thuộc về những người nắm được nhiều cổ phần. Vì vậy, giai cấp công nhân đang bị giai cấp tư sản bóc lột dưới một hình thức mới, tinh vi hơn mà thôi.
Về vấn đề này, V.I.Lênin chỉ rõ rằng: đây chỉ là trò bịp của giai cấp tư sản, làm cho người công nhân nhầm tưởng mình cũng làm chủ nhà máy, xí nghiệp, nhưng thực chất lại không như thế: “Sự “dân chủ hóa” việc sở hữu cổ phiếu, mà bọn ngụy biện tư sản và bọn cơ hội cũng tự xưng là “những người dân chủ xã hội” đang hy vọng (hoặc đang quả quyết rằng chúng hy vọng) là sẽ dẫn đến chỗ “dân chủ hóa tư bản”, tăng cường vai trò và ý nghĩa của sản xuất nhỏ, v.v., thật ra chỉ là một trong những phương pháp tăng thêm uy lực cho bọn đầu sỏ tài chính”(5).
Như vậy, với việc công nhân có cổ phần thì không phải vì thế mà họ trở thành nhà tư bản, mà chính đó lại là cơ sở cho bọn tư bản độc quyền củng cố thêm địa vị thống trị của chúng. Cái gọi là “tư bản nhân dân” mà các nhà lý luận tư sản đang rêu rao không hề làm thay đổi bản chất của chế độ tư bản, mà chỉ nhằm ru ngủ giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động mà thôi.
Ngày nay, đời sống của giai cấp công nhân cao hơn so với trước đây là đương nhiên. Đây là quy luật vận động, phát triển tất yếu của lịch sử. Đó còn là thành quả của quá trình lao động và phát triển sáng tạo không ngừng của giai cấp công nhân; đồng thời là kết quả của quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân buộc giai cấp tư sản phải có những nhượng bộ nhất định. Nhưng xét đến cùng, trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì địa vị và vai trò của giai cấp công nhân không hề thay đổi, vẫn là giai cấp của những người lao động, đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, bị giai cấp tư sản bóc lột với những mức độ và hình thức khác nhau.
Sai lầm căn bản của các nhà lý luận tư sản là cố tình nhầm lẫn, đánh đồng tính chất cách mạng của giai cấp công nhân với sự nghèo khổ. Đây là điều hoàn toàn sai trái và xuyên tạc. Trong lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vấn đề này đã từng bị phê phán. Họ thường phủ nhận tiềm năng cách mạng và sáng tạo của giai cấp công nhân, quan niệm giai cấp công nhân chỉ là những người ít học, phá hoại, đồng nhất giai cấp vô sản với bọn vô sản lưu manh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ cho rằng giai cấp công nhân chỉ cách mạng vì nghèo khổ, mà trái lại, giai cấp công nhân đấu tranh để xóa bỏ sự nghèo khổ đó, có tinh thần cách mạng triệt để, đấu tranh để đi lên nền sản xuất đại công nghiệp, chứ không phải như tầng lớp vô sản lưu manh là “cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối rữa của những tầng lớp bên dưới nhất trong xã hội cũ, thì đây đó, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào, nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho những mưu đồ của phe phản động”(6).
Bốn là, hiện nay, xu thế phát triển chủ đạo của thế giới là hòa bình, hợp tác và phát triển, các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh. Tuy nhiên, sẽ là mơ hồ, ấu trĩ nếu cho rằng không còn có sự khác biệt về ý thức hệ, không còn mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Bởi vì, hiện nay “cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau thậm chí gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế tiếp tục gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới”(7). Để thực hiện tham vọng của mình, các nước tư bản lớn tiếp tục tăng cường đầu tư cho quốc phòng để chạy đua vũ trang, làm cho cục diện và trật tự thế giới có những diễn biến phức tạp và khó đoán định. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, xung đột sắc tộc, tôn giáo tiếp tục bùng phát với những diễn biến khó lường, trong đó có sự xuất hiện chủ nghĩa khủng bố đang uy hiếp chính chủ nghĩa tư bản.
Một thực tế không thể phủ nhận là chủ nghĩa tư bản đã đạt được nhiều bước tiến trên lĩnh vực kinh tế, khoa học và công nghệ. Nhưng dù có bất kỳ ưu điểm gì đi nữa, thì cũng không thể bác bỏ được sự thật rằng bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi.
Thực tế đang cho thấy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì bất bình đẳng xã hội càng tăng, hố sâu ngăn cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu sắc hơn. Giai cấp công nhân tiếp tục bị bóc lột, bần cùng hóa cả tuyệt đối và tương đối. Hiện tại chúng ta lại đang chứng kiến “bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu”(8).
Nước Mỹ tư bản được mệnh danh là siêu cường của thế giới, nhưng bên cạnh những người Mỹ giàu có, còn hàng chục triệu người Mỹ thất nghiệp, vô gia cư, sống dưới mức nghèo khổ, thất học, không được chăm sóc y tế, cùng với nhiều tệ nạn xã hội đang lan tràn, làm suy thoái đạo đức, tha hóa con người. Cùng với đó, các phong trào biểu tình chống chủ nghĩa tư bản trên thế giới gần đây đã xé toang bức màn dối trá về sự “hợp tác giai cấp”, là minh chứng cho sự bất bình đẳng và những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Với thực trạng xã hội đó, làm sao xóa bỏ được cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ngay tại chính sào huyệt của chủ nghĩa tư bản. Các cuộc đình công, bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống chính phủ cắt giảm phúc lợi xã hội đang diễn ra ở nhiều nước tư bản. Các đảng cộng sản và công nhân ở các nước tư bản đang trăn trở tìm cho mình con đường đấu tranh phù hợp, đúng đắn nhất. Thông qua những hình thức đấu tranh khác nhau để tập hợp lực lượng và buộc các nhà nước tư sản cầm quyền phải có những chính sách mới, đáp ứng nguyện vọng phát triển hòa bình, dân sinh, dân chủ của giai cấp công nhân.
Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước đang phát triển chống lại chủ nghĩa tư bản quốc tế để bảo vệ độc lập chủ quyền, chống sự lũng đoạn của các công ty xuyên quốc gia, các mưu đồ áp đặt chính sách thực dân mới đang diễn ra quyết liệt. Nhiều nước chậm phát triển đang bị các nước đế quốc áp đặt nhiều chính sách vô lý như cấm vận, răn đe quân sự, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết của các dân tộc, tạo điều kiện cho các nước tư bản phát triển thông qua viện trợ để áp đặt, buộc các nước yếu hơn phải phụ thuộc vào chúng. Cuộc đấu tranh của các nước nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, chống sự xâm lược có tính chất thực dân mới của chủ nghĩa đế quốc, bề ngoài là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng thực chất đó chính là cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới.
Hiện tại, với sự thích ứng và tự điều chỉnh, chủ nghĩa tư bản đang tạm thời điều hòa được xung đột giai cấp, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang tạm thời lắng xuống, mang những “sắc thái mới”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được triệt để các mâu thuẫn và xung đột xã hội của nó. Vì thế, với “những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”(9). Vì lý do đó, sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản chỉ đến một giới hạn nhất định. Khi không còn khả năng điều chỉnh nữa, thì xung đột xã hội, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bùng phát mạnh mẽ.
Hiện nay, trong bối cảnh quá trình công nghiệp hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), hiện nay trên thế giới có hơn 1,5 tỷ công nhân lao động công nghiệp. Phần lớn giai cấp công nhân hiện nay được đào tạo và đào tạo lại ở các cấp trình độ khác nhau để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản dù còn nhiều khó khăn, nhưng sẽ có những bước tiến mới.
Ở các nước phát triển theo định hướng XHCN, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiên phong là đảng cộng sản, cùng với nhân dân lao động là những người làm chủ, trực tiếp vận hành nền sản xuất tạo ra của cải cho xã hội, và đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới. Chính thực tiễn sinh động đó đã minh chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Như vậy, việc nắm vững phương pháp luận mácxít về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hết sức quan trọng, giúp chúng ta khẳng định rằng mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản hiện nay giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng, không hề thay đổi, mặc dù cả chủ nghĩa tư bản và bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều biến đổi so với trước đây. Các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay dù trắng trợn hay khéo léo, tinh vi đến đâu cũng không thể nào bác bỏ được sự thật rằng giai cấp công nhân hiện đại là lực lượng đi đầu trong vận hành nền sản xuất của xã hội, tiên phong trong công cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột, xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
_________________
TS PHẠM VĂN GIANG
Học viện Chính trị khu vực III
(1), (3), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.25, phần I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1994, tr.456, 668, 670.
(2) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Sđd, 1995, tr.613-614.
(5) V.I.Lênin: Toàn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.439.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.610.
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.105-106.
(8) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân dân, ngày 17-5 -2021, tr.2.
(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.68-69.