Bài viết khái quát tư tưởng tiến bộ và công bằng xã hội trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Bài viết khẳng định, bằng tư duy lý luận sắc bén được hình thành qua thực tiễn lãnh đạo đất nước và dân tộc, trên nền tảng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí Tổng Bí thư đã tiếp tục phát triển tư tưởng về tiến bộ và công bằng xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tiến bộ và công bằng xã hội trong CNXH là động lực, mục tiêu và thước đo trình độ giải phóng con người thật sự, để thực hiện “bước nhảy của con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”(1), ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(2).
Tư tưởng tiến bộ và công bằng xã hội của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ lãnh đạo và hướng dẫn cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn mới, hướng tới thực hiện mục tiên chung là xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1. Tiến bộ và công bằng xã hội là bản chất vốn có của chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung và của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng nói riêng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, công bằng xã hội thuộc về phạm trù mang tính lịch sử và giai cấp. Các nhà kinh điển mácxít đã chỉ ra, căn nguyên của sự bất công và bất bình đẳng là chế độ tư hữu. Đây chính là căn nguyên dẫn đến sự tha hóa lao động đã sớm được C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra và giải thích việc tại sao CNTB đã tạo ra được những thành quả phát triển cao của lực lượng sản xuất nhưng vẫn không thực hiện được mục tiêu tiến bộ xã hội vì sự phát triển con người. Thậm chí, như C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến “giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”, song nó đã “không xóa bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi”(3).
Với sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân sau khi lật đổ chế độ tư bản và lên cầm quyền, sẽ xây dựng một chế độ xã hội trên nền tảng của một nền sản xuất không ngừng lớn mạnh với tổng giá trị quốc dân ngày càng cao, nhằm tạo điều kiện bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Đến chủ nghĩa cộng sản, như C.Mác khẳng định: “Con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành người tự do”(4). Đến khi đó thì nhân loại sẽ thực hiện sự công bằng hoàn toàn của một xã hội tiến bộ đích thực. Quan điểm trên của chủ nghĩa Mác đặt cơ sở cho chúng ta nhận thức những giá trị thật sự của tiến bộ và công bằng xã hội.
Những thành tựu phát triển của Việt Nam trong quá trình đổi mới hơn 35 năm đã chứng minh về giá trị bất hủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có giá trị hiện thực về tiến bộ và công bằng xã hội. Những quan điểm đó đang tiếp tục được hiện thực hóa và tiếp tục được khẳng định trong tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cuốn sách đã làm nổi bật những đặc trưng cơ bản của một xã hội tiến bộ và công bằng đó: “Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện,...”(5). Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau trong bất cứ hoàn cảnh nào. Điều đó chứng tỏ rằng, mục tiêu xây dựng CNXH đã thể hiện sinh động quan điểm của C.Mác về tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời mang những nét riêng của Việt Nam trong thời đại ngày nay. Điều này đã thể hiện sự sáng tạo mới về nguyên lý của chủ nghĩa Mác của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trong tác phẩm, quan điểm về tiến bộ và công bằng xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện nhất quán trong việc chỉ ra quy luật phát triển của CNXH, một chế độ xã hội vì sự phát triển con người, trái ngược hẳn với bản chất của CNTB bóc lột. Như Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Quy luật cơ bản của kinh tế xã hội chủ nghĩa là thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và văn hóa ngày càng cao của nhân dân lao động, trái ngược hẳn với nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, một nền kinh tế dựa vào sự bóc lột giai cấp công nhân ngày càng nặng nề, sự bần cùng hóa quần chúng lao động và sự cướp bóc các dân tộc bị nô dịch”(6).
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác, cũng như quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến bộ và công bằng xã hội trong CNXH, đồng thời phê phán sự bất công trong CNTB, tác phẩm của Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa”(7).
Đặc biệt về mặt hệ quả xã hội kéo theo từ bản chất khủng hoảng theo chu kỳ không thể tránh khỏi của nền kinh tế TBCN cũng ngày càng trở nên sâu sắc, không tránh khỏi. “Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”(8).
Những nội dung nêu trên mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ ra, thể hiện một hệ thống quan điểm về tiến bộ và công bằng xã hội luôn trong chỉnh thể với mục tiêu thực hiện sự tự do và bình đẳng thật sự chỉ có được trong CNXH. Nói cách khác, tiến bộ và công bằng xã hội cùng với tự do, bình đẳng là một chỉnh thể những nội dung căn bản để hiện thực hóa những giá trị, lý tưởng cao cả của CNXH - một xã hội tiến bộ vì sự giải phóng và phát triển con người toàn diện, đã được một người mácxít xuất sắc, một nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định.
2. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam luôn hướng tới mục tiêu thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội dựa trên nền tảng của sự phát triển kinh tế, của sự phát triển văn hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, cơ sở vật chất là sự bảo đảm cho tiến bộ và công bằng xã hội. Vì vậy, trong quá trình xây dựng CNXH, việc phát triển kinh tế đóng vai trò rất quan trọng, song đó phải là một nền kinh tế vì sự phát triển của con người, mà trước hết là nhân dân lao động. Về điều này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”(9).
Khẳng định về vai trò của phát triển kinh tế trong việc thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh... Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”(10).
Để khẳng định về vai trò của phát triển kinh tế cho thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trước hết đã khẳng định về sự đúng đắn trong nhận thức và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó nêu rõ: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới... Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối”(11).
Xuất phát từ nền tảng kinh tế cùng với những đặc trưng của CNXH mà Việt Nam đang xây dựng, nhất là về giá trị của tiến bộ và công bằng xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội đều phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(12).
Đồng thời, để xây dựng thành công CNXH trong đó nhấn mạnh đến giá trị tiến bộ và công bằng xã hội gắn với phát triển văn hóa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”(13).
Tổng Bí thư khẳng định, “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh”(14). Mục tiêu xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam với cốt lõi thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ở đó văn hóa bao hàm sự ứng xử của con người với tự nhiên, “Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”(15).
Về khía cạnh xây dựng hệ thống chính trị đồng bộ đối với mục tiêu thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Tổng Bí thư đã nêu rõ: “chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”(16).
Như vậy, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được xác định là cốt lõi trong mục tiêu tổng thể của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay và điều kiện tiên quyết “Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”(17).
3. Tình hình thế giới hiện nay một lần nữa khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa với những giá trị đích thực của tiến bộ và công bằng xã hội và chế độ tư bản chủ nghĩa không thể giải quyết triệt để các cuộc khủng hoảng trong khuôn khổ của nó
Kể từ khi CNXH trở thành một chế độ xã hội hiện thực bởi sự thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười của nước Nga, học thuyết của chủ nghĩa Mác đã được hiện thực hóa, trong đó có giá trị về tiến bộ và công bằng xã hội. Đây chính là giá trị hiện thực tạo động lực thúc đẩy và phát triển không chỉ ở những nước XHCN, mà đối với cả sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Nhưng từ sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên CNXH lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Những vấn đề đặt ra về thế nào là một xã hội tiến bộ và công bằng xã hội trong CNXH đã trở thành tâm điểm cho sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực chống phá. Từ đó dấy lên cái gọi là tiến bộ và công bằng xã hội chỉ có trong CNTB và đó mới là giá trị nhân loại vĩnh viễn. Song, thực chất cái gọi là tiến bộ và công bằng xã hội đạt được trong CNTB đến nay đã được trả lời qua bối cảnh thế giới đầy biến động ngày nay.
Để có lời giải cho câu hỏi ở tầm tư tưởng, quan điểm và lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời xuất phát từ bối cảnh phát triển của thế giới trong giai đoạn hiện nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt câu hỏi mang tầm tư duy phê phán sắc bén, rằng: “Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?”(18). Người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phân tích sâu sắc để chỉ ra căn nguyên và nêu rõ: “Từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là năm 2008 - 2009, chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công. Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(19).
Sự phát triển chao đảo trong thế giới TBCN như Tổng Bí thư đã chỉ ra khẳng định đây không chỉ là biểu hiện bề ngoài, nhất thời, nhanh chóng có thể khắc phục ngay được mà: “Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý”(20).
Những điều đã phân tích trên cho đến nay càng bộc lộ rõ, chính bản thân sự phát triển không êm thuận của CNTB trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI, xuất phát từ bản chất bên trong của CNTB chính là những đòn giáng chí mạng vào cái gọi là tiến bộ và công bằng xã hội chỉ có trong CNTB. Tổng Bí thư chỉ rõ: “Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc”(21).
Sự biến đổi trong thế giới ngày nay càng cho thấy CNTB luôn mệnh danh là một xã hội của sự tiến bộ và công bằng xã hội, nhưng thực chất bản chất của CNTB luôn đẩy con người đến sự tha hóa, bất công, bất bình đẳng và phản tiến bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế”(22)... Những điều phân tích sâu sắc này thể hiện tầm nhìn thấu đáo của nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng tư duy lý luận của một người mácxít xuất sắc đã chỉ rõ sự tiến bộ và công bằng xã hội đích thực chỉ có trong CNXH.
_________________
GS, TS PHAN KIM NGA, Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc
PGS, TS NGUYỄN MINH HOÀN, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 544 (tháng 6-2023)
Ngày nhận bài: 25-5-2023; Ngày bình duyệt: 17-6-2023; Ngày duyệt đăng: 26-6-2023.
(1), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.331, 333.
(2), (3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.628, 597.
(5), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20), (21), (22) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.24, 20, 20-21, 21, 26, 25-26, 92, 27, 93, 21, 21-22, 24-25, 18, 19, 20, 19, 19-20.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.161.